Lỗi thuộc yếu tố nào trong cấu thành tội phạm

Tội phạm là thể thống nhất giữa mặt chủ quan và mặt khách quan. Vì vậy, ngoài việc nghiên cứu biểu hiện bên ngoài thế giới khách quan của tội phạm; việc nghiên cứu hoạt động tâm lý bên trong của tội phạm cũng rất cần thiết. Vậy Lỗi thuộc yếu tố nào trong cấu thành tội phạm. Bài viết dưới đây của LVN Group hi vọng đem đến nhiều thông tin cụ thể và chi tiết đến Quý bạn đọc.

Lỗi thuộc yếu tố nào trong cấu thành tội phạm

1. Cấu thành tội phạm là gì?

Tội phạm theo như quy định của Bộ luật hình sự hiện hành có giải thích đó là hành vi nguy him cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ và được quy định trong Bộ luật hình sự. Những hành vi có dấu hiệu tội phạm nhưng mức độ ảnh hưởng xã hội không đáng kể thì không được coi là tội phạm.

Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng (khách quan và chủ quan) được quy định trong Luật Hình sự thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm, tức là căn cứ vào các dấu hiệu đó một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm.

Đặc điểm cơ bản của cấu thành tội phạm đó là:

+ Cấu thành tội phạm phải có các dấu hiệu pháp lý khách quan và chủ quan có tính chất bắt buộc; các dấu hiệu này phải phản ánh đúng bản chất của tội phạm để có thể phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Ngoài các dấu hiêu bắt buộc thì cấu thành tội phạm còn có dấu hiệu riêng để phản ánh bản chất riêng của tội phạm cụ thể.

+ Các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự.

+ Phải tổng hợp trọn vẹn các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm mới khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật cấm.

2. Lỗi trong cấu thành tội phạm

Lỗi là một dấu hiệu trong Mặt chủ quan của cấu thành tội phạm.

Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả hành vi do mình đó gây ra được biểu hiện dưới cách thức cố ý hoặc vô ý.

Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc có thể chia lỗi thành các loại như sau:

– Lỗi với vấn đề tự do xử sự và và trách nhiệm hình sự

Trong trường hợp này đứng trước các nguyên nhân khách quan đó; họ đã hoàn toàn tự do lựa chọn một biện pháp xử sự; đó là thực hiện hành vi phạm tội; nên họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình đã thực hiện.

Ví dụ: Điều kiện xã hội lương thấp hoặc thất nghiệp dẫn đến con người có thể lựa chọn một trong các biện pháp xử sự:

1.Trộm cắp;

2.Kiếm việc làm thêm;

3.Hạn chế khoản chi;

4.Tăng cường huy động nguồn viện trợ vv…

– Lỗi cố ý trực tiếp: Khoản 1 Điều 10 Bộ Luật hình sự 2015 định nghĩa: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó; và mong muốn hậu quả xảy ra.

Vì vậy, về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận thức rõ hậu quả tất yếu xảy ra hoặc có thể xảy ra;

Ví dụ như tội cướp tài sản: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; nhưng vẫn làm. Đồng thời; người phạm tội cũng mong muốn hậu quả xảy ra (chiếm đoạt được tài sản).

– Lỗi cố ý gián tiếp: Khoản 2 Điều 10 Bộ Luật hình sự 2015 định nghĩa: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra; tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.

Vì vậy, về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi và nhận thức rõ hậu quả có thể xảy ra.

Về ý chí: Người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra nhưng bỏ mặc không quan tâm đến hậu quả, hậu quả xảy ra thế nào cũng chấp nhận.

Ví dụ: Tội bức tử.

– Lỗi vô ý vì quá tự tin: Khoản 1 Điều 11 Bộ Luật hình sự 2015 định nghĩa: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội; nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

Vì vậy, Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của hành vi; và nhận thức rõ hậu quả có thể xảy ra.

Về ý chí: Người phạm tội loại trừ khả năng hậu quả xảy ra.

Cơ sở để người phạm tội loại trừ khả năng hậu quả xảy ra trong lỗi vô ý vì quá tự tin là người phạm tội chủ quan tin vào kinh nghiệm, thói quen, tin vào khả năng chuyên nghiệp vụ của mình. Nhưng hậu quả tổn hại vẫn xảy ra trên thực tiễn.

Ví dụ: Người lái xe tin rằng mình sẽ vượt qua được đường sắt trước khi tàu hỏa đến.

– Lỗi vô ý vì cẩu thả: Khoản 2 Điều 11 Bộ Luật hình sự 2015 định nghĩa Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Với khái niệm trên cho thấy lỗi vô ý do cẩu thả được thể hiện như sau:

Về lý trí: Người phạm tội trong lỗi vô ý do cẩu thả do cẩu thả nên không thấy trước hậu quả của hành vi nhưng trong điều kiện phải thấy trước và có thể thấy được hậu quả đó. Vì vậy, việc người phạm tội không thấy trước hậu quả của hành vi là do nguyên nhân chủ quan từ phía người phạm tội.

Ví dụ: Y tá A cần kiểm tra vắc xin kỹ trước khi tiêm như hạn sử dụng,… Tuy nhiên, do chủ quan, đã lấy nhầm lọ vắc xin hết hạn trong tủ thuốc dẫn đến hậu quả người được tiêm bị chết.

– Trường hợp hỗn hợp lỗi là trường hợp trong cấu thành tội phạm có hai loại lỗi (cố ý và vô ý) được quy định đối với những tình tiết khách quan khác nhau.

Ví du: CTTP tăng nặng tội cố ý gây thương tích (Khoản 2 và khoản 3).

– Sự kiện bất ngờ: Điều 20 BLHS 2015 quy định như sau:

Điều 20. Sự kiện bất ngờ

Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Trong trường hợp này; chủ thể không có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi của mình; hoặc tuy có nghĩa vụ phải thấy trước; nhưng không có đủ điều kiện để thấy trước hậu quả đó.

Ví dụ: Anh A đang lái xe thì bất ngờ có 1 cô gái lao ra trước đầu xe anh A khiến anh A không kịp phản ứng mà đâm vào cô gái.

3. Các câu hỏi liên quan thường gặp

3.1 Mặt chủ quan của tội phạm là gì? Bao gồm những gì?

Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm. Đó là những biểu hiện về mặt tâm lý của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội; bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.

Mặt chủ quan của tội phạm có những dấu hiệu: lỗi, mục đích và động cơ. Trong đó; lỗi được phản ánh trong tất cả cấu thành tội phạm (CTTP).

3.2 Bộ luật hình sự quy định thế nào về sự kiện bất ngờ?

Điều 20. Sự kiện bất ngờ

Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Trong trường hợp này; chủ thể không có nghĩa vụ phải thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi của mình; hoặc tuy có nghĩa vụ phải thấy trước; nhưng không có đủ điều kiện để thấy trước hậu quả đó.

Trên đây là nội dung trình bày mà chúng tôi gửi tới đến Quý bạn đọc về Lỗi thuộc yếu tố nào trong cấu thành tội phạm. Trong quá trình nghiên cứu và nghiên cứu, nếu như quý bạn đọc còn câu hỏi hay quan tâm đến Lỗi thuộc yếu tố nào trong cấu thành tội phạm, quý bạn đọc vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com