Lợi tức cổ phiếu và lợi tức trái phiếu

Trái Phiếu và Cổ Phiếu là 2 cách thức đầu tư chứng khoán xuất hiện đầu tiên và phổ biến trên thế giới. Vậy lợi tức của cổ phiếu và lợi tức trái phiếu là gì? Mời bạn đọc cân nhắc nội dung trình bày của LVN Group 

Lợi tức cổ phiếu và lợi tức trái phiếu

1. Lợi tức là gì?

Lợi tức là khoản lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, có thể lợi nhuận từ việc một khoản chứng khoán hoặc có thể là khoản tiền lãi thu được từ cho vay hoặc gửi tiết kiệm tại ngân hàng, như vậy tuỳ từng trường hợp mà lợi tức sẽ có tên gọi khác nhau.

Theo đó, trong đầu tư chứng khoán, lợi tức có thể gọi là cổ tức, trong tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi kỳ hạn, nó gọi là lãi hay tiền lãi. Còn trong các hoạt động đầu tư kinh doanh khác, lợi tức có thể gọi là lợi nhuận, tiền lời…

Dưới góc độ giữa người cho vay hay nhà đầu tư lợi tức được hiểu là số tiền tăng thêm trên số vốn đầu tư ban đầu trong một khoảng thời gian nhất định, khi nhà đầu tư tiến hành đầu tư một khoản vốn, sẽ thu được một giá trị lơn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu và khoản chênh lệch được gọi là lợi tức.

Dưới góc độ người đi vay hay người sử dụng vốn thì lợi tức này được hiểu là số tiền đi vay phải trả cho người cho vay để được sử dụng vốn trong một  thời gian nhất định, tuy nhiên , người cho vay có thể sẽ gặp rủi trong trường hợp người vay không trả tiền, rủi ro nay sẽ ảnh hưởng đến lợi tức trong tương lai.

2. Lợi tức cổ phiếu

Lợi tức cổ phiếu (hay gọi là cổ tức): là một phần lợi nhuận được phân phối cho cổ đông, tùy thuộc tình hình lợi nhuận của Tổ chức phát hành (TCPH) và tỷ lệ góp vốn đầu tư của từng cổ đông. Do đó, mức lợi tức CP cũng như phương thức chi trả, thanh toán cổ tức tùy thuộc sự phát triển sản xuất – kinh doanh và chính sách cổ tức của từng TCPH, do Hội đồng quản trị quyết định.

Lợi tức CP, nhất là chi trả cổ tức của một TCPH, thường có xu hướng: muốn tạo khả năng và duy trì mức cổ tức cao để tạo lòng tin cho nhà đầu tư, mặc dù tình hình – sản xuất kinh doanh tốt xấu, có khi đều không có sự phân biệt; hoặc có khi, vào những lúc thu hẹp hoạt động, nhưng chi trả cổ tức có thể vẫn cao, cho dù thu nhập giảm, và theo đó lợi nhuận giảm, do TCPH muốn duy trì mức trả cổ tức ngang bằng mức cổ tức trong thời kỳ kinh doanh phát đạt.

Theo các phương thức trên, không thoả đáng. Nhà đầu tư cần phân tích và hiểu biết trọn vẹn các yếu tố hoạt động, ảnh hưởng đến cổ tức và chi trả cổ tức – thường bao gồm:

  • Xác định mức tăng trưởng; tiềm năng của các khoản lợi nhuận trong tương lai.
  • Nghiên cứu, xem xét sự biến động của các khoản lợi nhuận trong các giai đoạn khác nhau và chu trình tái sản xuất – kinh doanh.
  • Nghiên cứu lợi nhuận và mức chi trả cổ tức của các tổ chức khác nhau trong cùng một ngành kinh doanh. Từ đó, nhà đầu tư xem xét các mối quan hệ: thu nhập – lợi tức – đầu tư phát triển – chi trả cổ tức… và tìm các phương án thích hợp nhất.

Thông thường, nhà đầu tư phải xem xét kỹ bản cáo bạch nhất là về tình hình tài chính hiện tại và 1 năm về trước, về kế hoạch sản xuất, kinh doanh và phát triển, đặc biệt là về nguồn thu nhập từ cổ tức hay lãi suất, sau khi trừ các chi phí liệu giá trị đầu tư có đạt trên điểm hòa vốn được không? Các rủi ro, lợi nhuận mang lại, khả năng cạnh tranh, diễn biến giá cả CP và tình hình biến động chỉ số VN-Index. Do đó, nhà đầu tư phải tỉnh táo với lợi tức thu được.

Nhà đầu tư, nếu mong muốn có một khoản cố định để bảo đảm cho việc chi dùng, thì có thể chọn đầu tư vào các trái phiếu hoặc CP ưu đãi; ngược lại, muốn phát triển nhanh đồng vốn của mình thì có thể chọn mua các loại CP và luôn chịu sự chi phối của nguyên tắc kinh doanh; rủi ro tỷ lệ thuận với lợi nhuận. Mặt khác, không nên đầu tư ngắn hạn, vì TTCK vẫn là một thị trường vốn dài hạn, khó lòng có thể tìm được mức lợi nhuận cao trong một thời gian ngắn.

Một số nhà đầu tư lại theo xu hướng đầu tư vào tương lai, có thể hiện tại công ty đang làm ăn thua lỗ, nhưng họ lại dự đoán và đánh giá một tiềm năng phát triển trong tương lai – nên họ quyết định đầu tư vào CP đó – đồng nghĩa với lợi nhuận cao, rủi ro cao.

Nguyên tắc cần thiết là xác định và duy trì cổ tức nên ở mức khá thấp và chỉ nên tăng mức cổ tức khi có những khoản thu nhập tăng thêm. Riêng đối với TCPH có độ biến động lớn, có thể áp dụng phương thức: duy trì mức cổ tức thấp, đồng thời chi trả những khoản cổ tức phụ trội vào các thời gian hợp lý và khi thu nhập cho phép nhằm bảo đảm việc chi trả cổ tức luôn thực hiện đối với nhà đầu tư.

Việc thanh toán, chi trả cổ tức cho cổ đông, có khả năng bằng tiền mặt hoặc không dùng tiền mặt, dưới 2 cách thức:

  • Chi trả cổ tức bằng CP, giữ tiền mặt cho đầu tư phát triển, nếu mức chi trả đó chiếm tỷ lệ nhỏ, khoảng 2-5% tổng số CP đã phát hành, thì nhà đầu tư không chú ý đến “loãng giá” (giá CP sẽ giảm xuống), ảnh hưởng không đáng kể đến thu nhập. Nhà đầu tư yên tâm khi họ nhận được CP nhiều hơn; nhưng thực tiễn họ không nhận được gì, vì khi công bố trả cổ tức bằng CP, thì giá CP sẽ giảm xuống tương ứng với tỷ lệ trả cổ tức bằng CP.
  • Chi trả cổ tức bằng tách CP, thường kéo theo việc phát hành nhiều CP hơn, theo một tỷ lệ tương ứng với số lượng CP, mà các cổ đông đang nắm giữ, và thường dẫn đến kết quả giá trị thị trường CP tăng lên.

Vì vậy, các TCPH vẫn giữ lại được nguồn vốn bên trong để đầu tư phát triển, tăng thêm CP cho các cổ đông, nguồn gửi tới CP cho thị trường, giảm biến động giá cả thị trường, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhà đầu tư.

3. Lợi tức trái phiếu

Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp hoặc chính phủ với người nắm giữ.

Chứng khoán là khái niệm được dùng khi đề cập đến các sản phẩm tài chính xác nhận sở hữu hợp pháp đối với tài sản hoặc phần vốn của công ty hay tổ chức đã phát hành. Khái niệm chứng khoán bao gồm cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ, chứng quyền…

Trong số các loại chứng khoán, trái phiếu là loại xác nhận nghĩa vụ nợ của đơn vị phát hành (doanh nghiệp hoặc chính phủ) với người nắm giữ trái phiếu (người cho vay) với một khoản tiền trong một thời gian xác định.

Đơn vị phát hành trái phiếu phải trả lợi tức cho người sở hữu trái phiếu và hoàn trả khoản tiền vay khi trái phiếu đáo hạn.

Thu nhập của trái phiếu được gọi là lợi tức – là khoản tiền lãi được trả cố định thường kỳ cho người nắm giữ và không phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của đơn vị phát hành.

Trái phiếu là chứng khoán nợ, vì vậy khi công ty bị giải thể hoặc phá sản, người nắm giữ trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước cổ đông nắm giữ cổ phiếu. Khác với người nắm giữ cổ phiếu, trái chủ (người nắm giữ trái phiếu) không có quyền tham gia vào hoạt động của công ty.

Phân biệt trái tức và lợi tức hiện tại của trái phiếu

Trái phiếu có thể thực hiện giao dịch trước khi chúng đáo hạn. Chẳng hạn, nhà đầu tư đang cần tiền gấp và muốn bán trái phiếu trước thời hạn. Điều đó sẽ khiến cho giá trị thị trường của trái phiếu ở mức dao động. Do đó, lợi tức hiện tại của trái phiếu khi đó thường sẽ khác với trái tức. 

Ví dụ, khi được phát hành, trái phiếu mệnh giá là 10 triệu đồng được mô tả là có trái tức 7%. Khi đó, lợi tức hiện tại của cả trái phiếu và trái tức đều là 7%. Nếu như sau đó, trái phiếu được giao dịch với giá là 9 triệu do thị trường biến động, lợi tức hiện tại sẽ tăng lên mức 7,8% (700.000 / 9.000.000). Nhưng, trái tức lúc này lại không thay đổi vì nó được xác định bằng cách lấy khoản thanh toán hằng năm chia mệnh giá (700.000 / 10.000.000 = 7%).

Từ những phân tích trên, ta có thể rút ra được 2 công thức như sau:

  • Trái tức = Khoản thanh toán hằng năm / Mệnh giá trái phiếu.
  • Lợi tức trái phiếu = Khoản thanh toán hằng năm / Giá trị thị trường của trái phiếu.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com