Một số bản án về cưỡng đoạt tài sản [Cập nhật 2023]

Trong thời buổi ngày nay, các tội phạm đang hoạt động ngày càng nhiều với những thủ đoạn rất tinh vi gây ra nhiều tác động xấu đến xã hội. Pháp luật hình sự Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định cơ bản nhằm xử phạt những tội phạm này. Vậy, bản án về tội cưỡng đoạt tài sản là thế nào? Hãy cùng theo dõi nội dung trình bày bên dưới của LVN Group để được trả lời câu hỏi và biết thêm thông tin chi tiết về bản án về tội cưỡng đoạt tài sản.

1.Tội cưỡng đoạt tài sản theo hướng dẫn pháp luật hiện hành

Trước khi nghiên cứu bản án về tội cưỡng đoạt tài sản, chủ thể cần nắm được quy định về tội cưỡng đoạt tài sản

Tội cưỡng đoạt tài sản được quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 cụ thể như sau:

Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

  • Có tổ chức;
  • Có tính chất chuyên nghiệp;
  • Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
  • Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
  • Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
  • Tái phạm nguy hiểm.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

  • Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
  • Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

  • Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
  • Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

2.Một số bản án về tội cưỡng đoạt tài sản

Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản cụ thể như sau:

  1. Bản án 35/2017/HSPT ngày 14/09/2017 về tội cưỡng đoạt tài sản

+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Bắc Ninh.

+ Tóm tắt nội dung: Lê Thái H có quan hệ tình cảm với chị Nguyễn Thị V từ cuối năm 2015. Sau đó chị V chia tay, do bực tức nên H đã có ý định trả thù. Chị V và T đã gặp nhau tại khách sạn G, hai bên đã quan hệ tình dục với nhau. T đã lén quay lại được video clip bằng điện thoại di động của T, sau đó gửi ảnh chụp và một đoạn clip cảnh quan hệ tình dục giữa T và chị V cho H qua Zalo. Sau đó H uy hiếp chị V mua lại clip với giá 50.000.000 đồng.

  1. Bản án 55/2017/HSST ngày 28/12/2017 về tội cưỡng đoạt tài sản

+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn – Ninh Bình

+ Tóm tắt nội dung: Ngày 05/8/2017 Hoa Văn T gặp chị Nguyễn Thị L, T đã dùng ảnh khỏa thân của chị L do T chụp từ trước để đe dọa chị L nếu không tiếp tục giữ mối quan hệ tình cảm với T thì sẽ đưa ảnh cho gia đình chị L xem. Khi chị L van xin, T nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của chị L, T yêu cầu trưa hôm sau là ngày 06/8/2017 chị L phải đưa cho T số tiền 5.000.000đ thì T mới xóa ảnh khỏa thân của chị L.

  1. Bản án 22/2018/HSST ngày 05/03/2018 về tội cưỡng đoạt tài sản

+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân – Hà Nội

+ Tóm tắt nội dung: Ngày 12/3/2017 S nảy sinh ý định sử dụng đoạn Video mà S quay lại cảnh S và chị T quan hệ tình dục để đe dọa, ép buộc chị T phải đưa tiền. Ngày 15/3/2017, S mượn chiếc điện thoại Samsung của em trai nhắn tin và liên lạc với chị T mục đích đe dọa, ép buộc chị T bỏ ra 1,5 tỷ đồng để chuộc chiếc điện thoại có clip ghi lại cảnh quan hệ tình dục, nếu không sẽ bán lại Clip cho một trang web sex.

  1. Bản án 58/2018/HS-ST ngày 20/08/2018 về tội cưỡng đoạt tài sản

+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng – Sóc Trăng

+ Tóm tắt nội dung:  T lại đến phòng trọ của K và cả hai tiếp tục quan hệ tình dục với nhau, lần này K có dùng điện thoại di động của K hiệu Huawi chụp ảnh của T không mặc quần áo và quay một đoạn clip hơn một phút về việc K và T đang quan hệ tình dục với nhau rồi lưu vào điện thoại. Sau đó K nhắn tin qua điện thoại kêu T chuyển tiền cho K nếu không thì K sẽ đăng các hình ảnh quan hệ tình dục với K lên mạng cho mọi người biết.

  1. Bản án 71/2020/HS-PT ngày 21/09/2020 về tội cưỡng đoạt tài sản

+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng

+ Tóm tắt nội dung:  Theo lịch hẹn, khoảng 21 giờ Th đến căn hộ của anh C, chờ đến khoảng 23 giờ đêm anh C về thanh toán tiền. Sau khi thanh toán xong, Th xin ngủ lại nhà anh C để sáng hôm sau đi đón bạn ở sân bay, C đồng ý. Khi Th ngủ lại nhà C, hai bên đã quan hệ tình dục tự nguyện với nhau. Sau đó, Th nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của anh C bằng cách lợi dụng việc anh C đã quan hệ tình dục với mình để đe dọa, ép buộc anh C đưa tiền theo yêu cầu của mình.

  1. Bản án 46/2018/HS-PT ngày 30/01/2018 về tội cưỡng đoạt tài sản

+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

+ Tóm tắt nội dung:  Tháng 8 năm 2014 (không nhớ ngày), LD đã đến nơi ở của BH là … và quan hệ tình dục với BH. Khoảng 01 tháng sau đó, LD tiếp tục dùng nick “Vitamin” liên lạc với BH và quan hệ lần thứ hai với nhau; sau khi quan hệ xong, LD hỏi vay là 20.000.000đồng và BH không cho vay tiền thì LD quay sang đe dọa: Nếu không đưa 20.000.000đồng thì LD sẽ bán ảnh khỏa thân của BH cho bạn cùng trường với BH hoặc cho người yêu của BH biết mối quan hệ giữa LD với BH và sẽ tải ảnh khỏa thân của BH lên trang mạng xã hội để BH được “Nổi tiếng”.

  1. Bản án 30/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội cưỡng đoạt tài sản

+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.

+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang

+ Tóm tắt nội dung:  Biết là L là người tu hành và tức giận do L hứa khi đi nhà nghỉ quan hệ tình dục xong cho tiền nhưng không cho nên bị cáo nhắn tin và điện thoại đe dọa và ép L phải đưa cho bị cáo số tiền 1.000.000 đồng thì bị cáo sẽ xóa hết các tin nhắn và video quay được lưu trên máy điện thoại của bị cáo, nếu không đưa bị cáo sẽ đăng những nội dung tin nhắn kích dục của bị hại và video quay được cảnh trò chuyện với nhau lên mạng xã hội và sẽ gửi các nội dung trên cho các chùa trên địa bàn Cần Thơ, Hậu Giang. Vì bị uy hiếp tinh thần dẫn đến lo sợ nên vào ngày 10/4/2019 bị hại L đã làm theo yêu cầu của bị cáo, chuyển cho bị cáo số tiền 1.000.000 đồng qua Ngân hàng Vietcombank, bị cáo nhận xong không thực hiện lời hứa xóa tin nhắn và video.

3.Cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản

Khi nghiên cứu bản án về tội cưỡng đoạt tài sản, chủ thể cần nắm được cấu thành của tội phạm này.

Chủ thể tội phạm

  • Chủ thể của tội cưỡng đoạt tài sản: người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều 170, vì khoản 1 Điều 170 là tội phạm nghiêm trọng. Trong khi đó, theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm  hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
  • Vì vậy, các đơn vị tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm tội cưỡng đoạt tài sản cần chú ý độ tuổi của người phạm tội và các tình tiết định khung hình phạt. Nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 170 Bộ luật hình sự thì chỉ cần xác định người phạm tội đã đủ 14 tuổi là đã phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nếu người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội cưỡng đoạt tài sản cũng tương tự như tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tức là  cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể ( quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân), nhưng chủ yếu là quan hệ tài sản. Nếu có xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì không phải là những tổn hại về thể chất (tính mạng, thương tật), mà chỉ có thể là những tổn hại về tinh thần ( sự sợ hãi, lo âu), tuy có ảnh hưởng đến sức khoẻ nhưng không gây ra thương tích cho người bị hại; tính chất và mức độ xâm phạm đến quan hệ nhân thân ít nghiêm trọng hơn nhiều so với tội cướp tài sản hoặc tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.

Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan

Người phạm tội cưỡng đoạt tài sản có thể thực hiện một trong những hành vi khách quan sau:

– Hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực:

– Những thủ đoạn người phạm tội dùng để uy hiếp tinh thần người bị hại nằm chiếm đoạt tài sản :

Cưỡng đoạt tài sản là hành vi được thực hiện một cách công khai, trắng trợn. Tuy nhiên, sự công khai trắng trợn chủ yếu đối với người có trách nhiệm về tài sản, còn đối với những người khác, người phạm tội không quan tâm, nếu hành vi phạm tội được thực hiện ở nơi công cộng, người phạm tội chỉ công khai trắng trợn với người có trách nhiệm về tài sản còn những người khác thì người phạm tội lại có ý thức lén lút.

Hậu quả

– Tội cưỡng đoạt tài sản là tội có cấu thành cách thức, điều này được thể hiện ngay điều văn của điều luật “nhằm chiếm đoạt tài sản”, do đó cũng như đối với tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt, hậu quả  không phải là yếu tố bắt buộc để định tội, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi đe dạo sẽ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người có trách nhiệm về tài sản là tội phạm đã hoàn thành.

Tuy nhiên, nếu gây ra hậu quả thì tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.

– Nếu hậu quả chưa xảy ra (người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản) thì cũng không vì thế mà cho rằng tội cưỡng đoạt tài sản được thực hiện ở giai đoạn chưa đạt, vì người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan đó là đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc đã dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm đến tài sản.

Tuy nhiên, nếu người phạm tội chưa thực hiện hành vi đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc chưa dùng thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người có trách nhiệm về tài sản, thì hành vi phạm tội thuộc trường hợp chuẩn bị phạm tội.

– Do cấu tạo của Điều 170 Bộ luật hình sự 2015 không có quy định trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của người khác là tình tiết định khung hình phạt.

Do đó, nếu người phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người bị hại hoặc của người khác thì tuy từng trường hợp mà người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 134 Bộ luật hình sự 2015. Ví dụ: Sau khi đã cưỡng đoạt được tài sản, người phạm tội bỏ đi thì bị phát hiện nên đã dùng vũ lực tấn công người bị hại hoặc người đuổi bắt gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ cho những người này.

Những vấn đề có liên quan đến bản án về tội cưỡng đoạt tài sản cũng như các thông tin cần thiết khác đã được trình bày cụ thể và chi tiết trong nội dung trình bày. Khi nắm được các thông tin về bản án về tội cưỡng đoạt tài sản sẽ giúp chủ thể xác định được vấn đề một cách chính xác và rõ ràng hơn.

Nếu quý khách hàng vẫn còn câu hỏi liên quan đến bản án về tội cưỡng đoạt tài sản cũng như các vấn đề có liên quan, hãy liên hệ ngay với LVN Group.

Công ty luật LVN Group chuyên gửi tới các dịch vụ tư vấn hỗ trợ pháp lý đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong thời gian sớm nhất có thể.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com