Một số bất cập trong chế định thừa kế hiện nay [Mới nhất 2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Một số bất cập trong chế định thừa kế hiện nay [Mới nhất 2023]

Một số bất cập trong chế định thừa kế hiện nay [Mới nhất 2023]

Quy định pháp luật về quyền thừa kế tài sản, quyền sử dụng đất ? Quy định về thừa kế tài sản, quyền thừa kế sử dụng đất theo pháp luật ? Quy định về thừa kế quyền chuyên gia ? Cách lập di chúc hợp pháp theo luật ? … Sẽ được luật sư tư vấn cụ thể:

Một số bất cập trong chế định thừa kế hiện nay [Mới nhất 2023]

1. Quy định về thừa kế 

Theo quy định tại Bộ luật Dân sự, thừa kế là việc chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người còn sống, tài sản để lại được gọi là di sản. Thừa kế được chia thành thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc.

Thừa kế theo di chúc là việc chuyển dịch tài sản thừa kế của người đã chết cho người còn sống theo sự định đoạt của người đó khi còn sống. Thừa kế theo di chúc được quy định tại chương XXII của Bộ luật dân sự năm 2015.

Thừa kế theo pháp luật là việc dịch chuyển tài sản thừa kế của người đã chết cho người sống theo hướng dẫn của pháp luật nếu người chết không để lại di chúc hoặc để lại di chúc nhưng di chúc không hợp pháp. Thừa kế theo pháp luật được quy định tại chương XXIII của Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Quyền thừa kế và quyền hưởng di sản của cá nhân

Theo quy định tại Điều 609 và 610 Bộ luật Dân sự năm 2015, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Quyền này của mọi cá nhân đều bình đẳng như nhau.

Những người được thừa kế theo hướng dẫn của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự. Người có được không có năng lực hành vi hoặc người có năng lực hành vi không trọn vẹn đều có quyền thừa kế. Trong trường hợp này, người giám hộ sẽ thực hiện giúp những người này các quyền và nghĩa vụ trong phạm vi tài sản của họ.

3. Các cách thức của thừa kế 

Chế định thừa kế trong Bộ luật dân sự 2015 gồm có hai trường hợp: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật.

3.1 Thừa kế theo di chúc

“Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết” (Điều 624 Bộ luật dân sự năm 2015). Việc phân chia di sản thế nào được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc, điều này đã được thể hiện tại Điều 626 Bộ luật dân sự năm 2015:

“Người lập di chúc có quyền sau đây:

  1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
  2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
  3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
  4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
  5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.”

 Mặc dù việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc, tuy nhiên có những trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, được quy định tại Khoản 1 Điều 644 Bộ luật dân sự năm 2015 bao gồm:

“1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

  1. a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
  2. b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.”

Từ quy định trên có thể thấy rằng, đối với trường hợp con chưa thành niên, con thành niên mà không có khả năng lao động, cha, mẹ, vợ, chồng dù người để lại di chúc không để lại di sản cho họ thì họ vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Sở dĩ pháp luật làm như vậy là để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

3.2 Thừa kế theo pháp luật

Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định (Điều 649 Bộ luật dân sự năm 2015). 

Theo Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2015, thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong những trường hợp sau:

Không có di chúc;

Di chúc không hợp pháp;

Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời gian với người lập di chúc; đơn vị, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời gian mở thừa kế;

Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Mặt khác, pháp luật cũng quy định chia thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản bao gồm:

Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;

Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;

Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời gian với người lập di chúc; liên quan đến đơn vị, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời gian mở thừa kế.

Xác định hàng thừa kế 

Để tiến hành chia thừa kế cần xác định hàng thừa kế theo pháp luật được quy định tại Khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015:

Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

 Việc chia thừa kế theo pháp luật được thực hiện theo nguyên tắc quy định tại Khoản 2, 3 Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:

“2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

  1. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.

4. Một số bất cập trong chế định thừa kế hiện nay [Mới nhất 2023]

4.1. Quy định về sự đồng ý cho lập di chúc

Về nội dung này, BLDS năm 2015 đã có những quy định thay đổi để đảm bảo tính phù hợp hơn so với các BLDS trước đó. Thay vì chỉ cần sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ cho đối tượng từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám như các văn bản quy phạm pháp luật trước, khoản 2 Điều 625 BLDS năm 2015 quy định “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc”.  Điều này khẳng định một cách rõ ràng hơn, là cha, mẹ hoặc người giám hộ không được can thiệp vào nội dung di chúc của người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi. Điểm a khoản 1 Điều 117 BLDS quy định chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập. Theo đó, việc lập di chúc là một giao dịch dân sự dưới dạng hành vi pháp lý đơn phương. Đồng thời, người lập di chúc phải khả năng nhận thức và làm chủ hành vi phù hợp. Trong đó, độ tuổi phù hợp để thực hiện được việc lập di chúc là từ đủ 15 tuổi.

Tuy nhiên, sự nhận thức của người chưa thành niên vẫn không hoàn toàn trọn vẹn và rõ ràng. Do đó, vẫn cần đến sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ. Khi đó, những chủ thể này sẽ xem xét hành vi lập di chúc của trẻ là có phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như có bị ép buộc được không. Có thể hiểu rằng trách nhiệm của người làm cha, mẹ hoặc giám hộ là đánh giá khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, hoàn cảnh của người lập di chúc.

 Quy định này thể hiện được sự phù hợp khi xét về bản chất của di chúc. Vì nội dung của di chúc phải là sự thể hiện ý chí của người kiến tạo ra nó, cho nên quy định mới này là phù hợp. Tuy nhiên, quy định về sự  đồng ý cho lập di chúc của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với loại di chúc của người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám là hợp lý nhưng vẫn chưa thuyết phục, vì:

Thứ nhất, di chúc hành vi pháp lý đơn phương của người để lại di sản. Pháp luật đề cao phương tiện ghi nhận sự thể hiện ra bên ngoài của ý chí hơn là những yếu tố mang tính ý niệm ở bên trong. Theo đó, việc lập di chúc của nhóm cá nhân này cần thiết phải ghi nhận một cách rõ ràng hơn sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ về việc lập di chúc bằng cách thức cụ thể mà qua đó, có thể chứng minh được sự tồn tại của nó một cách đơn giản nhất. Vì di chúc có hiệu lực ở thời gian người lập di chúc chết, nếu việc đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ về việc lập di chúc không rõ ràng thì có thể dẫn tới “sự không tồn tại bản di chúc”.  Điều này làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền của người lập di chúc và đồng thời ảnh hưởng tới quyền, lợi ích của những người thừa kế được chỉ định trong di chúc.  Họ sẽ phải vất vả rất nhiều trong việc chứng minh sự tồn tại sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ của người này.

Thứ hai, việc xác định phạm vi chủ thể đồng ý cho lập di chúc chưa bao quát được các trường hợp khác trong đời sống dân sự. Thực tế cho thấy, có trường hợp tại thời gian người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi lập di chúc chỉ có cha hoặc mẹ đơn thân hay cha hoặc mẹ biết việc lập di chúc của con và chỉ có một người đồng ý. Người còn lại có thể biết hoặc không biết về việc lập di chúc và chưa thể hiện sự đồng ý và khi có tranh chấp, họ hoàn toàn có thể thể hiện ý chí mình về việc chưa đồng ý. Rõ ràng, với quy định hiện tại, người từ đủ mười lăm đến chưa đủ mười tám tuổi chỉ có thể lập di chúc khi người này rơi vào một trong hai trạng thái: phải có cả cha, mẹ và cả cha, mẹ phải đồng ý cho lập di chúc hoặc có người giám hộ. Sự ghi nhận này hoàn toàn chưa đảm bảo được yếu tố khách quan và toàn diện vì nó có thể xâm phạm với quyền, lợi ích của một nhóm người trong xã hội.

4.2. Về tính hợp pháp của di chúc miệng

Theo quy định tại khoản 5 Điều 630 BLDS 2015, di chúc miệng chỉ được xem là hợp pháp nếu đáp ứng những điều kiện về cách thức sau: “Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày công tác, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc đơn vị có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.” Theo chuyên gia quy định này còn một số điểm chưa phù hợp:

Thứ nhất, về thời hạn đi công chứng, chứng thực di chúc miệng. Theo quy định của BLDS, thời hạn này là 5 ngày công tác kể từ thời gian người để lại di sản thừa kế thể hiện ý chí của mình ra bên ngoài. Vì sao BLDS giới hạn thời hạn công chứng, chứng thực trong khoảng thời gian chỉ có 5 ngày ngắn ngủi và việc giới hạn khoảng thời gian sẽ có tác dụng gì trong trường hợp này? Tác giả cho rằng, quy định này nhằm mục đích bảo đảm sự an toàn và tính hợp pháp cho di chúc miệng đã được lập, không ảnh hưởng đến quyền lợi của người để lại di sản thừa kế. Bởi lẽ, bất kỳ bất trắc nào đó xảy ra dẫn đến người làm chứng không thể công chứng, chứng thực di chúc được sẽ ảnh hưởng đến hiệu lực của di chúc miệng đã được lập. Ví dụ, trường hợp một trong hai người làm chứng lại xảy ra chuyện mà chưa kịp công chứng, chứng thực di chúc. Mặt khác, cần phải giới hạn thời gian vì di chúc miệng có thể bị ảnh hưởng nếu sau 3 tháng kể từ thời gian người để lại di sản thừa kế thể hiện ý chí mà còn sống, minh mẫn, sáng suốt. Do vậy, luật giới hạn thời gian công chứng, chứng thực di chúc miệng. Tuy nhiên việc giới hạn thời gian di chúc được công chứng, chứng thực trong 5 ngày theo chuyên gia là quá ngắn. Bởi lẽ, người lập di chúc miệng là những người đang ở trong tình trạng tính mạng bị cái chết đe dọa, có thể là bệnh nặng sắp chết hay gặp hoạn nạn…Sau khi người lập di chúc miệng chết, gia đình phải lo tang lễ mất ba đến năm ngày nên không thể kịp công chứng, chứng thực di chúc trong thời gian luật định.

Thứ hai, theo hướng dẫn tại khoản 5 điều 630 BLDS nếu không được công chứng hoặc chứng thực trong thời hạn 05 ngày công tác thì di chúc miệng sẽ mất hiệu lực có thể dẫn đến hậu quả là di chúc không có giá trị pháp lý và tài sản sẽ không được chia theo di chúc này theo đúng tâm tư, nguyện vọng của người để lại di chúc. Tuy nhiên, điều luật lại không quy định cụ thể nghĩa vụ thực hiện việc công chứng hoặc chứng thực là do ai sẽ thực hiện là người thừa kế được hưởng di sản hay những người làm chứng về việc để lại di chúc theo hướng dẫn của pháp luật. Điều này gây ra cách hiểu khác nhau, có ý kiến cho rằng người hưởng di sản có thể thực hiện việc công chứng, chứng thực di chúc mà đã được những người làm chứng ghi lại theo ý chí, tâm tư, nguyện vọng của người có tài sản để lại. Ý kiến khác lại cho rằng, việc tiến hành công chứng hoặc chứng thực này chỉ có thể do người làm chứng thực hiện (người thừa kế có thể đi cùng người làm chứng). Chính quy định chưa rõ nghĩa vụ công chứng, chứng thực nên việc áp dụng di chúc miệng trong thực tiễn sẽ khác nhau.

4.3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất, của người không biết chữ.

Theo quy định tại khoản 3 điều 630 BLDS 2015, người bị hạn chế về thể chất, người không  biết chữ chỉ có thể lập di chúc thông qua  người làm chứng lập thành văn bản. Văn bản này sau đó được mang đi công chứng hoặc chứng thực. Quy định này trên thực tiễn có thể được hiểu theo hai cách sau:

Thứ nhất, người hạn chế về thể chất, người không biết chữ chỉ có thể lập di chúc bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực.

Thứ hai, người bị hạn chế về thể chất, người không biết chữ có thể lập di chúc bằng miệng. Bởi lẽ, theo hướng dẫn của khoản 3 Điều 630 BLDS, người làm chứng phải lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực. Đây cũng là một điều kiện đối với di chúc miệng được quy định tại khoản 5 điều 630 BLDS. Cách hiểu này đảm bảo quyền lựa chọn và sự tự do ý chí của người để lại di sản thừa kế theo di chúc là đối tượng thuộc nhóm người đặc biệt.

Do vậy, để tránh việc suy luận ra hai cách hiểu như trên và để thống nhất trong việc áp dụng luật cần có quy định cụ thể rõ ràng hơn về cách thức di chúc của người bị hạn chế về thể chất, người không biết chữ.

4.4. Di sản dùng vào việc thờ cúng.

Theo quy định tại Điều 626, 645 BLDS năm 2015 quy định người lập di chúc có quyền dành một phần tài sản trong khối di sản để thờ cúng. Tuy nhiên, việc hiểu “một phần tài sản trong khối di sản” được quy định trong điều 626 chưa thống nhất nên trên thực tiễn áp dụng đã có những cách hiểu và vận dụng khác nhau, chưa thống nhất giữa các đơn vị chức năng. Căn cứ có hai cách hiểu và vận dụng pháp luật một cách khác nhau đối với cùng một nội dung thủ tục công chứng di chúc.

Quan điểm thứ nhất cho rằng “một phần tài sản trong khối di sản” được hiểu là một phần tài sản trong một tài sản cụ thể, độc lập với tài sản khác. Do đó, hiện nay có phòng công chứng chưa đồng ý việc công chứng di chúc có nội dung để lại toàn bộ nhà, đất dành vào việc thờ cùng bởi họ cho rằng đối với một ngôi nhà cụ thể thì người lập di chúc chỉ được dành một phần của ngôi nhà đó để thờ cúng, chứ không được để lại toàn bộ toàn bộ ngôi nhà để thờ cúng.  Do vậy, dẫn đến trường hợp có người có hai hoặc nhiều ngôi nhà trên các thửa đất khác nhau nay muốn lập di chúc để lại một ngôi nhà để thờ cúng nhưng không được công chứng di chúc.

Quan điểm thứ hai lại cho rằng cần phải hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là cần phải hiểu một phần tài sản của toàn bộ khối di sản mà người lập di chúc để lại, chứ không thể hiểu là một phần của từng tài sản đơn lẻ. Nếu toàn bộ ngôi nhà gắn liền với đất là một phần tài sản trong khối di sản (còn có nhiều tài sản khác như tài khoản ở ngân hàng, vàng bạc đá quý, nhà đất khác…) thì phải chứng thực di chúc với nội dung nói trên theo yêu cầu của người dân.         

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com