Một số vấn đề về thực trạng thực hiện pháp luật về thuế GTGT - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Một số vấn đề về thực trạng thực hiện pháp luật về thuế GTGT

Một số vấn đề về thực trạng thực hiện pháp luật về thuế GTGT

Bằng việc ban hành các sắc thuế, nhà nước thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp, sử dụng hệ thống chính sách thuế như một công cụ không chỉ để điều tiết nền kinh tế mà còn nhằm quản lý hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Đảm bảo ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước, thực hiện phân phối thu nhập và định hướng kinh doanh. Vì thế, nội dung trình bày dưới đây chúng tôi muốn mang đến bạn đọc những vấn đề về thực trạng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam. Mời bạn đọc cùng theo dõi

Một số vấn đề về thực trạng thực hiện pháp luật về thuế GTGT

1. Quan niệm về thuế giá trị gia tăng

Thuế giá trị gia tăng theo tiếng Anh gọi là Value Added Tax (viết tắt là VAT), được dịch ra tiếng Việt là thuế giá trị gia tăng (GTGT).

Hiện nay, thuế GTGT được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới và đã có khoảng 156 quốc gia áp dụng loại thuế này. Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. GTGT là khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ khi qua mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ.

Phần giá trị tăng thêm ở mỗi giai đoạn bao gồm: tiền lương, tiền công, lợi nhuận, lợi tức cổ phần, tiền lãi vay ngân hàng phải trả và các khoản chi phí phát sinh.

Nói cách khác, GTGT là phần chênh lệch giữa giá đầu ra với giá đầu vào do đơn vị kinh tế tạo ra trong quá trình thực hiện sản xuất – kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

Thuế GTGT có những đặc điểm cơ bản sau:

– Thuế GTGT là một loại thuế gián thu. Tính gián thu của thuế GTGT được biểu hiện ở việc người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Người mua hàng hóa, dịch vụ là người phải trả thuế GTGT thông qua giá mua hàng hóa, dịch vụ. Người bán hàng hóa, dịch vụ thực hiện nộp khoản thuế GTGT “đã được người mua trả” vào ngân sách nhà nước.

– Thuế GTGT là sắc thuế tiêu dùng nhiều giai đoạn. Thuế GTGT đánh vào tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất – kinh doanh, từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng, nhưng chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của mỗi giai đoạn. Tổng số thuế GTGT thu được của tất cả các giai đoạn đúng bằng số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.

– Thuế GTGT có tính trung lập kinh tế cao. Tính trung lập biểu hiện ở 2 khía cạnh, đó là:

  • Thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của người nộp thuế, do người nộp thuế chỉ là người “thay mặt” người tiêu dùng nộp hộ khoản thuế này vào ngân sách nhà nước. Do vậy, thuế GTGT không phải là yếu tố của chi phí sản xuất, mà chỉ đơn thuần là một khoản thu được, cộng thêm vào giá bán của người gửi tới hàng hóa, dịch vụ.
  • Thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia quá trình sản xuất – kinh doanh, bởi tổng số thuế ở tất cả các giai đoạn luôn bằng số thuế tính trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng bất kể số giai đoạn nhiều hay ít.

– Thuế GTGT có tính chất lũy thoái so với thu nhập, vì nó không tính đến khả năng thu nhập của người chịu thuế, người có thu nhập cao hay thấp đều phải chịu thuế như nhau nếu cùng mua một loại hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, tỷ lệ thu nhập nộp thuế của những người có thu nhập thấp sẽ cao hơn tỷ lệ nộp thuế của người có thu nhập cao nếu so với tổng thu nhập trong kỳ, bởi lẽ tốc độ tăng tiêu dùng bao giờ cũng thấp hơn tốc độ tăng thu nhập.

– Về phạm vi đánh thuế, thuế GTGT chỉ đánh vào hoạt động tiêu dùng diễn ra trong phạm vi lãnh thổ, không đánh vào hành vi tiêu dùng ngoài lãnh thổ. Đặc điểm này tạo ra sự công bằng trong những giao dịch quốc tế thông qua việc không thu thuế đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu và đánh thuế đối với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu.

2. Thực trạng thực hiện pháp luật về thuế ở Việt nam hiện nay

  • Về kê khai, nộp thuế:
Quy định về kê khai, nộp thuế bao gồm những nội dung trình tự đã được tổng kết và có tính phản ánh quy luật của đối tượng nộp thuế từ khâu trước khi tiến hành hoạt động làm phát sinh nghĩa vụ thuế đến khâu phải nộp một khoản tiền thuế cho kho bạc nhà nước theo thời hạn định trước. Việc quy định và tuân thủ quy định về kê khai nộp thuế thể hiện thái độ của nhà nước đối với người nộp thuế và mức độ tuân thủ pháp luật của người nộp thuế.
Điều này cũng lý giải việc không tuân thủ hoặc tuân thủ không đúng quy định về kê khai, nộp thuế là nguy cơ gây ra những hậu quả pháp lý nhất định cho người nộp thuế.
Bên cạnh đó những quy định về trình tự thủ tục kê khai nộp thuế cũng cần được cụ thể, chi tiết và cần có tính khả thi cao. Mỗi loại thuế có thể quy định đồng thời 3 phương pháp: kê khai nhưng nộp thuế theo quyết định của đơn vị thu, nộp thuế khoán, tự kê khai và tự nộp thuế.
  • Thuế thu nhập doanh nghiệp đánh trực tiếp vào thu nhập của tổ chức sản xuất kinh doanh và làm giảm ngay khả năng sử dụng thu nhập có được của doanh nghiệp nên loại thuế này gây cảm giác mất mát cho người nộp thuế, và vì vậy dễ gây ra phản ứng từ đối tượng nộp thuế, dẫn đến tình trạng trốn thuế.

Khấu trừ thuế thu nhập doanh nghiệp rất phức tạp, khó kiểm soát, vì vậy các đơn vị quản lý thuế phải đầu tư nhiều cả về tài lực, vật lực, nhân lực cho công tác quản lý lĩnh vực thuế này. Việc quản lý thuế rất khó khăn, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ thuế đông đảo và có trình độ chuyên môn, quản lý kinh tế cao, kèm theo việc áp dụng các phương tiện quản lý có kỹ thuật hiện đại với một hệ thống pháp luật trọn vẹn, có hiệu lực và quan hệ giao tiếp công vụ tốt.

  • Liên quan đến quá trình thực hiện nghĩa vụ thu nộp thuế xuất nhập khẩu (XNK), pháp luật Việt Nam về thuế XNK quy định cụ thể về đồng tiền nộp thuế, tỷ giá tính thuế, đăng ký, kê khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và nộp thuế, các vấn đề về thủ tục xét miễn thuế, hoàn lại thuế, truy thu thuế, xử lý khiếu nại và các vi phạm về thuế. Những quy định này hướng tới việc đảm bảo lợi ích cho các chủ thể tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa trong mối quan hệ với yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhaoaj khẩu và phù hợp với xu hướng chung của thế giới.
  • Hoạt động quản lí thuế có vai trò đảm bảo cho chính sách thuế được thực thi nghiêm chỉnh trong thực tiễn đời sống kinh tế xã hội. Trải qua thời gian, thuế luôn có sứ mệnh thực hiện những chức năng cao cả của nó như điều tiết kinh tế vĩ mô, phục vụ mục tiêu tăng trưởng của đất nước hay phân phối thu nhập nhằm đảm bảo sự công bằng  giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tuy nhiên, các mục tiêu này chỉ trở thành hiện thực nếu các đơn vị quản lí thuế thực hiện điều hành, giám sát tốt việc nộp thuế đúng đủ, đúng hạn số thuế phải nộp vào ngân sách nhà nước. Vì vậy, hoạt động quản lí thuế có vai trò quyết định cho sự thành công của từng chính sách thuế.

3. Thực trạng quản lý thuế và các yêu cầu đặt ra đối với đơn vị Kiểm toán nhà nước

2.1 Thực trạng công tác kiểm toán thuế trong thời gian qua

Qua kiểm toán cho thấy mức độ vi phạm pháp luật thuế còn cao, diễn ra ở hầu hết các địa phương và các loại hình doanh nghiệp và các sắc thuế; chất lượng công tác thanh, kiểm tra thuế còn hạn chế, còn bỏ sót nhiều sai phạm của doanh nghiệp như:
  • áp dụng không đúng thuế suất thuế giá trị gia tăng,
  • kê khai ưu đãi và miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và thực hiện miễn giảm thuế sai quy định,
  • áp đơn giá đất để tính tiền sử dụng đất chưa đúng…
Kết quả kiểm toán năm 2014, kiểm toán nhà nước đã phát hiện và kiến nghị tăng thu về thuế và các khoản khác cho ngân sách nhà nước 4.497,8 tỷ đồng.

Mặt khác, qua kiểm toán đã phát hiện một số bất cập, sai phạm về tuân thủ pháp luật thuế mang tính phổ biến, như:

– Một số đối tượng nộp thuế chưa tuân thủ đúng pháp luật trong kê khai, nộp thuế, dẫn đến nguồn thu NSNN không được nộp trọn vẹn và kịp thời.
– Nhiều đơn vị chưa kê khai hoặc kê khai không trọn vẹn các khoản thuế từ hoạt động kinh doanh; một số đối tượng nộp thuế chưa tuân thủ pháp luật trong kê khai, nộp thuế; chất lượng công tác thanh, kiểm tra còn hạn chế, còn bỏ sót một số sai phạm của doanh nghiệp trong kê khai doanh thu, chi phí, thuế GTGT đầu vào, áp dụng không đúng thuế suất thuế GTGT, kê khai ưu đãi và miễn giảm thuế TNDN không đúng quy định;…
– Công tác hoàn thuế, xoá nợ và miễn giảm thuế sai quy định; xác định số nợ đọng thuế chưa trọn vẹn.
Bên cạnh kết quả đã đạt được, công tác kiểm toán thuế trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng kiểm toán, cụ thể:
Thứ nhất, các báo cáo kiểm toán chủ yếu nặng về phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật thuế của người nộp thuế để từ đó kiến nghị tăng thu NSNN.
– Thứ hai, phạm vi kiểm toán việc tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế còn hạn chế.
– Thứ ba, số lượng đối tượng nộp thuế lớn, địa bàn rộng khắp trong khi nguồn nhân lực của đơn vị kiểm toán còn hạn chế, dẫn đến mẫu chọn kiểm toán chiếm tỷ lệ nhỏ trong số lượng đối tượng quản lý.

2.2 Nguyên nhân của những thực tại tồn đọng

  • Cơ sở pháp luật chưa rõ ràng về trách nhiệm của KTNN đối với kiểm toán thuế nên phạm vi kiểm toán còn hẹp, chưa bao quát hết các đối tượng nộp thuế. Việc kiểm toán thuế mới chỉ thực hiện tại các doanh nghiệp nhà nước, tại đơn vị quản lý thu, trong khi đối tượng nộp thuế rộng, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã, hộ cá thể kinh doanh…
  • Sự phối hợp với các đơn vị quản lý thu với KTNN chưa tốt; KTNN chưa thể truy cập và khai thác được dữ liệu quản lý của ngành Thuế.
  • Chưa thực hiện kiểm toán theo phương pháp phân tích rủi ro, xác định trọng yếu kiểm toán nên chức năng xác nhận bị hạn chế.

    Quy trình kiểm toán chưa quy định cụ thể, nhất là nội dung, phạm vi, quyền hạn khi thực hiện việc đối chiếu thuế tại các đối tượng nộp thuế. Chất lượng kiểm toán viên còn nhiều hạn chế…

2.3 Giải pháp

-Thứ nhất, đổi mới phương pháp thu thập và xử lý thông tin trong việc xây dựng kế hoạch kiểm toán thuế: KTNN cần nghiên cứu, hướng dẫn các phương pháp thu thập và xử lý thông tin trong việc xây dựng kế hoạch kiểm toán thuế theo từng chuyên đề chuyên sâu đối với từng sắc thuế như: chuyên đề kiểm toán thực hiện chính sách pháp luật về thuế GTGT, thuế TNDN, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hay chuyên đề thuế nhà đất, thuế sử dụng đất… nhằm đánh giá chuyên sâu theo từng sắc thuế, tránh nợ đọng, gian lận, chống thất thu thuế cho ngân sách nhà nước.
– Thứ hai, đổi mới cách thức tổ chức kiểm toán thuế, thành lập đoàn kiểm toán độc lập với kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách: Cần xác định đối tượng kiểm toán gắn với mục tiêu kiểm toán mang tính chuyên sâu để thành lập đoàn kiểm toán tương ứng, bởi vậy cần đổi mới theo hướng tăng cường tổ chức các cuộc kiểm toán chuyên đề chuyên sâu, hạn chế việc thực hiện kiểm toán lồng ghép. Có như vậy mới góp phần gửi tới kịp thời yêu cầu công tác quản lý, điều hành, giám sát lĩnh vực thuế của các cấp quản lý, góp phần giúp KTNN đào tạo được đội ngũ KTV chuyên sâu về lĩnh vực kiểm toán này.
– Thứ ba, tăng cường thực hiện chức năng kiểm toán hoạt động khi thực hiện kiểm toán, nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý và sử dụng NSNN: Hiện nay, KTNN đang tập trung cho loại hình kiểm toán tuân thủ trong lĩnh vực kiểm toán thuế, tuy nhiên để KTNN trở thành một công cụ mạnh của Nhà nước trong công tác kiểm tra tài chính nhà nước, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của công tác quản lý tài chính quốc gia và phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển, KTNN cần triển khai một cách đồng bộ thực hiện trọn vẹn cả ba loại hình kiểm toán: Kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động; trong đó tập trung phát triển kiểm toán hoạt động để đánh giá hiệu quả công tác quản lý thuế, hiệu quả các chính sách thuế nhằm đưa ra những ý kiến tư vấn, kiến nghị hoàn thiện công tác quản lý thu thuế chưa cao.
– Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác nghiệp vụ kiểm toán thuế: Ngày nay, công nghệ tin học đã phát triển mạnh mẽ, nhất là trong lĩnh vực quản lý thuế, quá trình theo dõi, quản lý người nộp thuế đều được sử dụng bằng những phần mềm chuyên dụng. Bởi vậy, để có thể đáp ứng tốt nhiệm vụ công tác kiểm toán thuế trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi các kiểm toán viên cũng phải có những công cụ hỗ trợ về công nghệ thông tin mới có thể tiếp cận được đối tượng kiểm toán và thực hiện kiểm toán một cách hiệu quả. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm toán sẽ giúp cho KTV nâng cao hiệu quả, chất lượng và tiết kiệm thời gian kiểm toán.
Trên đây là những nội dung mà chúng tôi đề cập đến thực trạng thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam. Nếu bạn đọc còn có vướng mắc phát sinh, vui lòng liên hệ ngay với chúng tôi để được hỗ trợ nhanh nhất.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com