Ngày 27 tháng 11 năm 2015, Quốc hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 hay còn gọi là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ra đời thay thế cho Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, qua thời gian áp dụng các quy định pháp luật thì xuất hiện một số vướng mắc, bất cập của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Để nghiên cứu những vướng mắc, bất cập đó, hãy theo dõi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group.
1. Căn cứ pháp lý.
Căn cứ vào các quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
2. Một số vướng mắc, bất cập trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
– Thứ nhất, về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm: theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm trong việc sửa căn cứ mà bản án sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội. Trong khi đó, khoản 6 Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bị cáo được Tòa án tuyên không có tội có quyền kháng cáo về căn cứ mà bản án sơ thẩm đã xác định là họ không có tội.
– Thứ hai, về quyền sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo: quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Nếu có căn cứ thì Hội đồng xét xử vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều, khoản của Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường tổn hại.” Quy định này có thể xảy ra trường hợp sau khi bản án sơ thẩm được tuyên, trong thời hạn chỉ có kháng nghị của Viện kiểm sát đề nghị tăng mức bồi thường tổn hại nhưng nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm phải giảm mức bồi thường tổn hại cho bị cáo hoặc bị đơn dân sự. Quy định này là có lợi cho bị cáo và bị đơn dân sự nhưng lại gây bất lợi cho người được bồi thường vì bồi thường là vấn đề dân sự của các bên nhưng khi có kháng nghị của Viện kiểm sát làm phát sinh thủ tục phúc thẩm mà Tòa án tự quyết định sửa phần này của bản án là không tôn trọng nguyện vọng của những chủ thể có liên quan nhưng không kháng cáo.
– Thứ ba, về trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo hướng dẫn tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cho những bị cáo dù họ không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
Khoản 3 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nếu có căn cứ, hội Hội đồng xét xử phúc thẩm có thể sửa bản án sơ thẩm theo hướng: miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt; không áp dụng hình phạt bổ sung; không áp dụng biện pháp tư pháp; áp dụng điều, khoản của Bộ luật Hình sự về tội nhẹ hơn; giảm hình phạt; giảm mức bồi thường tổn hại và sửa quyết định xử lí vật chứng; chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên hoặc giảm mức hình phạt tù và cho hưởng án treo đối với những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Đây là ngoại lệ của nguyên tắc Tòa án cấp phúc thẩm chỉ được xem xét và quyết định trong phạm vi kháng cáo, kháng nghị.
Việc giảm mức bồi thường tổn hại cho những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị là không hợp lí vì không phù hợp với nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, theo đó đương sự tự quyết định về quyền, lợi ích của họ và lựa chọn biện pháp pháp lí cần thiết để bảo vệ quyền, lợi ích đó.
– Thứ tư, về quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về xử lý vật chứng lại có nhiều bất cập:
+ Không đồng bộ với quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm. Bởi lẽ, ngoài công cụ, phương tiện (của người phạm tội) dùng vào việc phạm tội và vật, tiền do phạm tội mà có, thì các loại vật, tiền sau đây nếu được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cũng là vật chứng: Vật, tiền do mua bán, đổi chác những thứ ấy (vật, tiền do phạm tội mà có); Khoản thu lợi bất chính từ việc phạm tội; Vật, tiền (của người khác) bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép làm công cụ, phương tiện phạm tội; Vật, tiền của người phạm tội không liên quan trực tiếp đến tội phạm nhưng bị thu giữ trong quá trình giải quyết vụ án (như chiếc ví trong đó có tiền và các giấy tờ tùy thân, Giấy phép lái xe của người phạm tội đánh rơi và bị thu giữ tại hiện trường vụ án… là vật chứng có giá trị chứng minh tội phạm). Cho nên cũng cần có quy định về việc xử lý các loại vật chứng này nhưng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định việc xử lý các loại vật chứng này.
+ Với nội dung quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thì việc xử lý vật chứng có thể tiến hành trong bất cứ giai đoạn tố tụng nào (điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự). Tuy nhiên, quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều luật này lại mâu thuẫn vì khoản 1 quy định chỉ được xử lý vật chứng tại một số thời gian như đình chỉ vụ án hoặc xét xử vụ án; còn tại khoản 3 lại quy định có thể xử lý vật chứng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Việc quy định phải xử lý vật chứng tại các thời gian đình chỉ hoặc xét xử vụ án là đúng nhưng chưa đủ. Theo chúng tôi, thì việc xử lý vật chứng cũng cần thiết được thực hiện khi tạm đình chỉ vụ án (thuộc phạm trù trong quá trình giải quyết vụ án đã được quy định tại khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Bởi lẽ, có những vật chứng là tài sản của người khác (không phải của người phạm tội) được thu thập trong quá trình giải quyết vụ án nhưng ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án vì đã được mô tả trong biên bản thu giữ vật chứng, chụp ảnh hoặc photo, khám xét hoặc định giá làm tài liệu trong hồ sơ vụ án. Việc giữ những vật chứng này trong cả quá trình tạm đình chỉ vụ án là không cần thiết vì vừa tốn kém kinh phí bảo quản vừa gây tổn hại không đáng có cho người chủ hở hữu hoặc quản lý hợp pháp tài sản đó. Thực tế đã có nhiều vụ án về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, đơn vị tiến hành tố tụng đã trả lại phương tiện giao thông đường bộ (là vật chứng trong vụ án) sau khi đã khám xe, lập biên bản và chụp ảnh.
– Bán vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản vừa được quy định là biện pháp bảo quản vật chứng (tại điểm đ khoản 1 Điều 90 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) vừa được quy định là biện pháp xử lý vật chứng (tại điểm c khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Theo chúng tôi, thì việc bán vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của đơn vị có thẩm quyền tại Kho bạc Nhà nước là biện pháp bảo quản vật chứng đã được chuyển đổi thành tiền chứ không phải là biện pháp xử lý vật chứng. Cho nên cần bỏ quy định này tại điểm c khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
– Thứ tư, về ngôn ngữ thì hình phạt quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự là ‘Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy”. Còn hình phạt quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là “tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy”.
Trên đây là toàn bộ nội dung nội dung trình bày giới thiệu về một số vướng mắc, bất cập trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nội dung nội dung trình bày liệt kê và phân tích những vướng mắc, bất cập của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nếu trong quá trình nghiên cứu, quý bạn đọc còn có vấn đề câu hỏi cần được trả lời hay có quan tâm đến các dịch vụ tư vấn do LVN Group gửi tới, vui lòng truy cập địa chỉ trang web sau đây: https://lvngroup.vn/ để được tư vấn trả lời câu hỏi một cách chi tiết nhất.