Nghị định hướng dẫn Bộ Luật dân sự 2015 mới nhất hiện nay là Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/03/2021 do Chính phủ ban hành. Vậy ở nghị định hướng dẫn Bộ luật dân sự này cần chú ý những vấn đề gì, những điểm mới nào? Hãy cùng chúng tôi nghiên cứu.
1. Sơ lược về Nghị định số 21/2021/NĐ-CP
- Cơ quan ban hành: Nghị định số 21/2021/NĐ-CP do Chính phủ ban hành về Quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
- Ngày ban hành: Ngày 19 tháng 3 năm 2021 và có hiệu lực vào ngày 15 tháng 5 năm 2021.
- Căn cứ ban hành:
- Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 19 tháng 6 năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22 tháng 11 năm 2019;
- Căn cứ Bộ luật Dân sự ngày 24 tháng 11 năm 2015;
- Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
- Chính phủ ban hành Nghị định quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
- Trách nhiệm thi hành:
- Bộ trưởng Bộ Tư pháp tổ chức thi hành Nghị định này.
- Các Bộ trưởng, Thủ trưởng đơn vị ngang Bộ, Thủ trưởng đơn vị thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các đơn vị, tổ chức và cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
2. Những điểm mới của Nghị định số 21/2021/NĐ-CP
Nghị định hướng dẫn Bộ luật dân sự 2015 có những điểm mới so với những quy định trước đó như:
Nghị định 21 đã có những định nghĩa về các khái niệm như “Tài sản gắn liền với đất”, “Hợp đồng bảo đảm”, “Giấy chứng nhận”, hay “Thời hạn hợp lý” mà những nghị định hướng dẫn luật dân sự trước đó chưa làm rõ. Những khái niệm do không được giải thích cụ thể trong Nghị định cũ nên đã có sự dung túng hoặc không rõ ràng trong thực tiễn áp dụng.
Điểm mới về tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Nghị định 21/2021/NĐ-CP đã quy đinh về tài sản được dùng để bảo đảm như: Quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; Tài sản được tạo lập từ quyền bề mặt, quyền hưởng dụng; Giấy tờ có giá, chứng khoán, số dư tiền gửi; Quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng; Dự án đầu tư, tài sản thuộc dự án đầu tư; hay đối với trường hợp đầu tư vào tài sản thế chấp làm cho giá trị của tài sản thế chấp tăng lên thì phần giá trị đầu tư tăng thêm thuộc tài sản thế chấp;… Đây là những điểm hoàn toàn mới so với Nghị định cũ, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng hơn cho các chủ thể, đặc biệt là các doanh nghiệp và ngân hàng có thể sử dụng các tài sản này làm tài sản bảo đảm cho việc huy động vốn và cấp tín dụng.
Biện pháp bảo đảm bằng tài sản chung của vợ chồng, đây là một điểm mới được đưa vào Nghị định 21/2021/NĐ-CP, theo đó, trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về việc một bên dùng tài sản chung để góp vốn vào một tổ chức kinh tế thì bên đó được tự mình xác lập, thực hiện hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm liên quan đến tài sản chung, hoặc mặc dù trên thực tiễn hai vợ chồng không có sự thỏa thuận về việc dùng tài sản chung vào việc góp vốn nhưng có sự việc một bên vợ hoặc chồng dùng tài sản chung để góp vốn và xác lập, thực hiện hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm liên quan đến tài sản chung mà người còn lại biết được nhưng không phản đối thì vẫn được coi như là đã có thỏa thuận của hai vợ chồng (Điều 27). Trong trường hợp này, nếu xảy ra sự kiện ly hôn giữa hai vợ chồng thì người đã xác lập hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm vẫn được tiếp tục thực hiện hợp đồng bảo đảm, biện pháp bảo đảm, trừ trường hợp có phán quyết khác của đơn vị tài phán.
Quyền truy đòi tài sản được quy định tại Điều 7 theo đó quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm trong biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba không thay đổi hoặc không chấm dứt trong trường hợp tài sản bảo đảm bị chuyển giao cho người khác do mua bán, tặng cho, trao đổi, chuyển nhượng, chuyển giao khác về quyền sở hữu; chiếm hữu, sử dụng hoặc được lợi về tài sản bảo đảm không có căn cứ pháp luật và không thuộc trường hợp như:
Tài sản bảo đảm đã được bán, được chuyển nhượng hoặc đã được chuyển giao khác về quyền sở hữu do có sự đồng ý của bên nhận bảo đảm và không được tiếp tục dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận;
Tài sản thế chấp được bán, được thay thế hoặc được trao đổi theo hướng dẫn tại khoản 4 Điều 321 của Bộ luật Dân sự;
Tài sản bảo đảm không còn hoặc bị thay thế bằng tài sản khác quy định tại Điều 21 Nghị định này;
Trường hợp khác theo hướng dẫn của Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan.
Về chế định xử lý tài sản bảo đảm, khác với Nghị định cũ, Nghị định 21/2021/NĐ-CP đã sử dụng cụm từ “Xử lý tài sản bảo đảm” thay vì “Xử lý tài sản bảo đảm trong cầm cố, thế chấp” để thấy rằng những quy định trong chế định này được áp dụng cho tất cả các biện pháp bảo đảm mà không chỉ quy định cho riêng biện pháp bảo đảm bằng cầm cố và thế chấp như Nghị định trước.
Mặt khác việc xử lý tài sản bảo đảm phải được thực hiện đúng với thỏa thuận của các bên, quy định của Nghị định này và pháp luật liên quan.
Trường hợp tài sản bảo đảm là quyền khai thác khoáng sản, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên khác thì việc xử lý tài sản bảo đảm phải phù hợp theo hướng dẫn của pháp luật về khoáng sản, pháp luật về tài nguyên thiên nhiên khác và pháp luật có liên quan.
Ngoài những điểm mới so với những quy định cũ, nghị định hướng dẫn bộ luật dân sự 2015 này còn có những quy định cần lưu ý như: quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng nhiều biện pháp bảo đảm, bằng nhiều tài sản; tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; về hiệu lực của hợp đồng bảo đảm; hiệu lực đối kháng của biện pháp bảo đảm với người thứ ba; bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai…
Trên đây là nội dung phân tích về Nghị định hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự 2015 mới nhất. Mọi vấn đề liên quan đến pháp luật dân sự, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ quý bạn đọc có thể liên hệ với Công ty Luật LVN Group để được hỗ trợ tư vấn. LVN Group với đội ngũ luật sư nhiều kinh nghiệm và am hiểu luật dân sự, tự tin là đơn vị hỗ trợ bạn những vấn đề dân sự tốt nhất có thể.