Nghị quyết 12-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước. - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Nghị quyết 12-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước.

Nghị quyết 12-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước.

Trong phạm vi nội dung trình bày dưới đây, LVN Group sẽ gửi tới đến bạn đọc thông tin về nghị quyết 12 về doanh nghiệp nhà nước, nêu ra được một số điểm mới của nghị quyết về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. 

1. Khái niệm doanh nghiệp Nhà nước trong nghị quyết 12 về doanh nghiệp nhà nước

Nghị quyết số 12 về doanh nghiệp nhà nước đã xác định nội hàm rõ doanh nghiệp nhà nước để thống nhất cách hiểu “Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc giữ cổ phần, vốn góp chi phối, tổ chức và hoạt động dưới cách thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn”. Vậy phạm vi bao quát không chỉ ở một số ít doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ mà còn bao gồm một số lượng rất lớn doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối, phù hợp với thực tiễn trong nước và thông lệ quốc tế. Khái niệm này kế thừa Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX), nhưng có bổ sung hơn so với Luật Doanh nghiệp 2014 (Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ). Hiện nay, vốn và tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước rất lớn và Nhà nước có vai trò cần thiết trong định hướng phát triển các doanh nghiệp này, vì vậy rất cần sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với các doanh nghiệp có cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước.


Nghị quyết 12 về doanh nghiệp nhà nước

2. Về vị trí và vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nghị quyết 12

– Trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) xác định: “doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”; “doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất cần thiết để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế”.

– Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) nêu bật hơn vai trò của Doanh nghiệp Nhà nước theo tinh thần cụ thể hóa quan điểm của Đại hội XII: Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất cần thiết của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; doanh nghiệp nhà nước thực hiện vai trò dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

3. Về phạm vi ngành, lĩnh vực hoạt động

Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) đề ra chủ trương tiếp tục thu hẹp phạm vi ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, cụ thể là: Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn cần thiết và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.

Trong khi đó, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) xác định: “Kiên quyết điều chỉnh cơ cấu để doanh nghiệp nhà nước có cơ cấu hợp lý, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn cần thiết, chiếm thị phần đủ lớn đối với các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu; không nhất thiết phải giữ tỉ trọng lớn trong tất cả các ngành, lĩnh vực, sản phẩm của nền kinh tế”.

Vì vậy, phạm vi ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã được xác định rõ hơn so với Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) và phù hợp hơn với vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

4. Về cơ chế hoạt động, tiêu chí đánh giá hiệu quả doanh nghiệp nhà nước

– Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) xác định quan điểm: Doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo hướng dẫn của pháp luật. Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước. Tách bạch nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thông thường và nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, gửi tới hàng hoá, dịch vụ công ích.

Quan điểm này cụ thể hóa chủ trương của Đảng trong Đại hội XII “Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng cạnh tranh theo pháp luật”; “Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích”.

– Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) đề xuất giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước thật sự vận hành theo cơ chế thị trường:

+ Doanh nghiệp nhà nước tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội do Nhà nước giao thực hiện theo cơ chế Nhà nước đặt hàng, lựa chọn cạnh tranh, công khai và xác định rõ giá thành, chi phí thực hiện, trách nhiệm và quyền lợi của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước để bảo đảm không làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.

+ Quan hệ kinh tế, tài chính giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, nhất là các quyền và nghĩa vụ phải được thực hiện đầy đủ, minh bạch theo quy định của pháp luật, phù hợp với cơ chế thị trường.

+ Xoá bỏ các cơ chế can thiệp hành chính trực tiếp, bao cấp dành cho doanh nghiệp nhà nước, đối xử bất bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các nguồn lực nhà nước, tín dụng, đất đai, tài nguyên, cơ hội đầu tư, kinh doanh, tài chính, thuế,…

+ Phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt của doanh nghiệp nhà nước trong việc hình thành và mở rộng các chuỗi sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị trong nước, khu vực và thế giới. Hạn chế tình trạng sản xuất kinh doanh khép kín, cục bộ, không minh bạch trong doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là trong các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.

Nhìn chung, đổi mới cơ chế, chính sách hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo Nghị quyết này là hướng tới bảo đảm đối xử bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước, quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp nhà nước “sòng phẳng” và rõ ràng hơn theo cơ chế thị trường nhằm bảo đảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) xác định: Doanh nghiệp tự chủ quyết định kinh doanh theo quan hệ cung cầu trên thị trường phù hợp với mục tiêu thành lập và điều lệ hoạt động. Xóa bỏ bao cấp đối với doanh nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi đối với các ngành, vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên hoặc khuyến khích phát triển, không phân biệt thành phần kinh tế. Việc xem xét, đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước phải có quan điểm toàn diện cả về kinh tế, chính trị, xã hội; trong đó, lấy suất sinh lời trên vốn làm một trong những tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp kinh doanh, lấy kết quả thực hiện các chính sách xã hội làm tiêu chuẩn chủ yếu để đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp công ích. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý để doanh nghiệp nhà nước kinh doanh tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. Bảo hộ cần thiết, có điều kiện đối với những ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần thiết. Thực hiện độc quyền nhà nước trong lĩnh vực cần thiết, nhưng không biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Xóa bao cấp, đồng thời có chính sách đầu tư đúng đắn và hỗ trợ phù hợp đối với những ngành, lĩnh vực, sản phẩm cần ưu tiên phát triển.

5. Về định hướng cơ cấu lại

– Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) xác định quan điểm: Cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo cơ chế thị trường là quá trình thường xuyên, liên tục với phương thức thực hiện và lộ trình hợp lý. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng kiên quyết cổ phần hoá, bán vốn tại những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần, vốn góp chi phối, kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; đồng thời xử lý triệt để, bao gồm cả việc cho phá sản các doanh nghiệp nhà nước yếu kém.

Quan điểm này thể hiện việc cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước là một quá trình thường xuyên, liên tục không chỉ nhằm xử lý những hạn chế, yếu kém hiện nay mà còn để doanh nghiệp nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, thực hiện được vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước đã nêu và tiếp tục thu hẹp số lượng doanh nghiệp nhà nước để tập trung vào 3 ngành, lĩnh vực đã được Đại hội XII của Đảng xác định. Quan điểm này cho thấy sự quyết tâm cao của Đảng trong việc đổi mới, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, nhất là cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước.

Trong khi đó, Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) xác định: “Chuyển doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo chế độ công ty; đẩy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn, xem đó là khâu cần thiết để tạo chuyển biến cơ bản trong việc nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước”.

– Về cổ phần hóa doanh nghiệp, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Nghị quyết số 12-NQ/TW (khóa XII) có một số điểm mới để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thực tiễn mà Nghị quyết Trung ương 3 (khóa IX) chưa đề cập tới:

+ Giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước xuống mức đủ để thay đổi quản trị một cách thực chất và thu hút nhà đầu tư có năng lực thực sự; tối đa hoá giá trị bán vốn nhà nước theo cơ chế thị trường.

+ Rà soát, đánh giá toàn diện thực trạng và phân loại các doanh nghiệp nhà nước, dự án, công trình đầu tư và vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp để có giải pháp cơ cấu lại, xử lý phù hợp. Kiên quyết xử lý dứt điểm các doanh nghiệp nhà nước, các dự án đầu tư thua lỗ, kém hiệu quả. Đối với doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối hoặc không cần nắm giữ cổ phần, vốn góp thì thực hiện cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê, giải thể, phá sản. Đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn hoặc cần nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối thì cơ cấu lại bằng cơ chế, chính sách phù hợp. Đối với những dự án đầu tư thua lỗ, thực hiện cơ cấu lại và chuyển nhượng dự án cho nhà đầu tư thuộc thành phần kinh tế khác. Làm rõ trách nhiệm và xử lý nghiêm theo hướng dẫn của pháp luật những vi phạm của các tổ chức, cá nhân liên quan để xảy ra tình trạng doanh nghiệp nhà nước, dự án đầu tư thua lỗ, thất thoát, lãng phí lớn.

+ Khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư chiến lược tham gia mua cổ phần, góp vốn vào doanh nghiệp khi cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước. Hoàn thiện tiêu chí cổ đông lớn, cổ đông chiến lược có đủ năng lực tài chính, công nghệ và quản trị để cơ cấu lại và phát triển doanh nghiệp.

+ Đẩy mạnh thoái vốn đầu tư ngoài ngành, lĩnh vực kinh doanh chính, kiên quyết khắc phục tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở nhiệm vụ được giao, ngành, nghề kinh doanh chính, khai thác tối đa tiềm năng, thế mạnh; triệt để tiết kiệm chi phí; nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ, uy tín và thương hiệu trên thị trường.

+ Sử dụng có hiệu quả chính sách thuế, phí gắn với nâng cao hiệu quả công tác quy hoạch đất đai một cách ổn định. Tăng cường quản lý, kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm nhà đầu tư thực hiện trọn vẹn nghĩa vụ tài chính với Nhà nước trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất sau cổ phần hoá.

+ Tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước được quản lý tập trung và chỉ sử dụng cho các mục đích chi đầu tư phát triển; không sử dụng cho chi thường xuyên của ngân sách nhà nước.

+ Đối với các doanh nghiệp nhà nước đang được giao quản lý, khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư có ý nghĩa cần thiết về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, khi cổ phần hoá, Nhà nước tiến hành kiểm soát theo nguyên tắc: Nhà nước thống nhất sở hữu các công trình hạ tầng cần thiết; doanh nghiệp cổ phần hoá, nhà đầu tư nhận quyền khai thác chỉ được quyền quản lý, vận hành, khai thác các công trình, dự án kết cấu hạ tầng; việc lựa chọn nhà đầu tư, doanh nghiệp phải thực hiện theo Luật Đấu thầu, công khai, minh bạch; bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.

+ Tăng cường đầu tư, nâng cao năng lực của doanh nghiệp nhà nước về đổi mới sáng tạo, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ, kỹ thuật sản xuất hiện đại, sử dụng tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường, coi đây là yếu tố quyết định nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước.

Trên đây là một số thông tin chi tiết về nghị quyết 12 về doanh nghiệp nhà nước. Hy vọng với những thông tin LVN Group đã gửi tới sẽ giúp bạn hiểu thêm về vấn đề trên. Nếu bạn cần hỗ trợ tư vấn hỗ trợ pháp lý hoặc sử dụng các dịch vụ pháp lý khác từCông ty Luật LVN Group, hãy đừng ngần ngại mà liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ nhanh chóng. LVN Group cam kết sẽ giúp bạn có trải nghiệm tốt nhất về các dịch vụ mà mình gửi tới đến khách hàng. Chúng tôi luôn đồng hành pháp lý cùng bạn.

Gmail: info@lvngroup.vn

Website: lvngroup.vn

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com