Hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán.
Hiện nay, hợp đồng mua bán tài sản là một trong những loại hợp đồng được sử dụng rất nhiều và dần trở nên phổ biến trong đời sống xã hội. Khi kí kết hợp đồng mua bán tài sản thì các bên có đưa ra sự thoả thuận và các nghĩa vụ phải được thực hiện theo như thoả thuận đã ký kết trong hợp đồng. Trong hợp đồng mua bán tài sản, ngoài việc các bên thực hiện theo thoả thuận thì còn có nghĩa vụ bảo hành. Pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành đã quy định về điều khoản nghĩa vụ bảo hành trong hợp đồng mua bán tài sản. Bài viết dưới đây của Công ty Luật LVN Group sẽ gửi tới cho bạn đọc nội dung liên quan đến nội dung điều khoản nghĩa vụ bảo hành trong hợp đồng bảo hành.
– Cơ sở pháp lý: Bộ luật dân sự 2015
1. Khái niệm hợp đồng mua bán tài sản
Hợp đồng mua bán tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán.
Bên bán phải bảo đảm giá trị sử dụng hoặc các đặc tính của vật mua bán; nếu sau khi mua mà bên mua phát hiện khuyết tật làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị sử dụng của vật đã mua thì phải báo ngay khi phát hiện ra khuyết tật và có quyền yêu cầu bên bán sửa chữa, đổi vật có khuyết tật, giảm giá và bồi thường tổn hại, nếu không có thoả thuận khác.
– Đặc điểm của hợp đồng mua bán tài sản:
+ Hợp đồng mua bán tài sản là hợp đồng song vụ
Bên bán và bên mua đều có quyền và nghĩa vụ đối nhau, theo đó, bên bán có quyền yêu cầu bên mua nhận vật và trả tiền mua vật, ngược lại, nếu bên mua có quyền yêu cầu bên bán chuyển giao vật và nhận tiền bán vật.
+ Hợp đồng mua bán là hợp đồng có đền bù
Khoản tiền mà bên mua tài sản phải trả cho bên bán tài sản là khoản đền bù về việc mua bán tài sản. Đặc điểm, có đền bù trong hợp đồng mua bán tài sản là yếu tố phân biệt giữa hợp đồng này với hợp đồng tặng cho tài sản là hợp đồng có đền bù
+ Hợp đồng mua bán tài sản là hợp đồng nhằm mục đích chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản từ bên bán sang bên mua
Đây là căn cứ kế tục quyền sở hữu tài sản. Đặc điểm này là yếu tố phân biệt giữa hợp đồng mua bán tài sản là yếu tố phân biệt giữa hợp đồng mua bán tài sản với hợp đồng cho mượn tài sản, hợp đồng cho thuê tài sản.
– Bên bán trong hợp đồng mua tài sản là người có tài sản đem bán, là chủ sở hữu của tài sản hoặc là người được uỷ quyền bán. Mặt khác, bên bán còn có thể là người uỷ quyền hợp pháp theo hướng dẫn của pháp luật. Theo đó, bên bán có quyền yêu cầu bên mua phải trả tiền theo như thoả thuận của các bên khi ký kết hợp đồng. Bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua đúng kỳ hạn, đúng phương thức và địa điểm. Nếu bên bán không giao vật đúng kỳ hạn, đúng đố tượng, bên mua có quyền huỷ hợp đồng mua bán, và thực hiện những nghĩa vụ mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng.
– Bên mua có nghĩa trả tiền cho bên bán đúng như giá cả đã thoả thuận đồng thời có nghĩa vụ nhận tài sản khi bên bán giao cho. Bên mua có quyền yêu cầu bên bán giao đúng vật, đúng số lượng, đúng chất lượng, đúng địa điểm, chủng loại, đúng thời hạn… Nếu bên bán giao tài sản không đúng số lượng, chủng loại,.. thì bên mua có quyền huỷ hợp đồng hoặc nhận tài sản thì có quyền yêu cầu bên bán bồi thường tổn hại. Trong trường hợp mua bán tài sản có bảo hành, trong thời hạn bảo hành, nếu bên mua phát hiện được khuyết tật của tài sản hoặc tài sản không đảm bảo chất lượng như đã thoả thuận… thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán phải sửa chữa tài sản, đổi tài sản khác hoặc yêu cầu giảm giá bán. Nếu bên bán không chịu thực hiện nghĩa vụ sửa chữa, đổi tài sản, giảm giá,.. thì bên mua có quyền yêu cầu lấy lại tiền mua và trả lại sản phẩm cho bên bán. Khi bảo hành, mọi chi phí và sửa chữa bên bán phải gánh chịu.
– Hợp đồng mua bán được thực hiện ngay sau khi các bên thoả thuận xong về đối tượng giá cả, bên mua trả tiền cho bên bán chuyển giao vậy cho bên mua. Nhưng cũng có thể được các bên thoả thuận khác, như nhận tiền trước- giao vật sau, Nếu đối tượng của hợp đồng mua bán là một số lượng lớn tài sản thì các bên có thể chuyển giao vật làm nhiều lần và mỗi lần theo một số lượng, khối lượng nhất định. Sau khi các bên thực hiện xong hợp đồng, họ sẽ thoả mãn các nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất, kinh doanh.
– Hợp đồng mua bán tài sản là phương tiện pháp lý tạo điều kiện cho công dân, tổ chức trao đổi hàng hoá, thoả mãn nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, quan hệ mua bán phản ánh mối quan hệ kinh tế về trao đổi vật tư, sản phẩm giữa các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển, góp phần nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân.
2. Điều khoản nghĩa vụ bảo hành trong hợp đồng mua bán tài sản là gì?
Mua bán có bảo hành dược quy định từ Điều 446 đến Điều 449 của Bộ luật dân sự 2015. Theo đó, trong quá trình sản xuất ra hàng hoá, đặc biệt những hàng hoá có kết cấu phức tạp, đòi hỏi người sản xuất có phương tiện máy móc kỹ thuật hiện đại và trình độ công nghệ cao như các đồ dùng điện tử và điện tử, xe hơi… nếu không đảm bảo về kỹ thuật thì khi dùng nó không đáp ứng được nhu cầu của người mua. Để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và cũng để giữ tín nhiệm với khách hàng, các nhà sản xuất đặt ra cho mình nghĩa vụ là sửa chữa hàng hoá đã bán cho người mua trong một thời hạn nhất định, thời hạn đó gọi là thời hạn bảo hành do các bên tự thoả thuận và được thể hiện trong hợp đồng mua bán tài sản.
Trong thời hạn bảo hành, nếu bên mua phát hiện được khuyết tật của vật mua thì có quyền yêu cầu bên bán phải sửa chữa và không phải trả tiền sửa chữa.
– Căn cứ Điều 446 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Bên bán có nghĩa vụ bảo hành đối với vật mua bán trong một thời hạn, gọi là thời hạn bảo hành, nếu việc bảo hành do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Thời hạn bảo hành được tính kể từ thời gian bên mua có nghĩa vụ phải nhận vật”. Theo đó, có thể hiểu bên bán phải bảo đảm vật bán đúng chất lượng như đã thoả thuận, nếu chất lượng vật không đúng như vậy thì có nghĩa vụ sửa chữa vật hoặc phải chịu những chi phí về sửa chữa. Sau khi mua vật về sử dụng, vật bị hư hỏng, khuyết tật mà không phải do lỗi của người mua thì bên bán hàng hoá phải sửa chữa. Vì vậy, bên bán có nghĩa vụ vận chuyển đến nơi sửa chữa và sau khi sửa chữa xong phải trả lại vật cho người mua tại nơi cư trú hoặc trụ sở của bên mua (nếu không có thoả thuận khác).
– Trường hợp nếu không sửa chữa được vật, bên bán phải giảm giá vật bán hoặc đổi cho người mua vật khác. Nếu người mua không chấp nhận giảm giá hoặc đổi vật khác thì bên bán phải trả lại tiền và nhận lại vật.
– Trong thời hạn bảo hành, vật bị hư hỏng do lỗi của người mua, bên bán không phải sửa chữa. Nhưng nếu do khuyết tật về kĩ thuật mà vật bị hư hỏng và gây tổn hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe cho người mua hoặc người khác, bên bán có nghĩa vụ phải bồi thường tổn hại đó.
– Bảo hành được hiểu là một biện pháp khắc phục hậu quả do sai sót về kĩ thuật của người sản xuất, bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng. Mặt khác, nó tạo ra tâm lí an tâm cho người mua trong quá trình sử dụng tài sản, từ đó khuyến khích mọi người.
– Bồi thường tổn hại trong thời hạn bảo hành ( Điều 449 Bộ luật dân sự 2015)
” Điều 449. Bồi thường tổn hại trong thời hạn bảo hành
1. Ngoài việc yêu cầu thực hiện các biện pháp bảo hành, bên mua có quyền yêu cầu bên bán bồi thường tổn hại do khuyết tật về kỹ thuật của vật gây ra trong thời hạn bảo hành.
2. Bên bán không phải bồi thường tổn hại nếu chứng minh được tổn hại xảy ra do lỗi của bên mua. Bên bán được giảm mức bồi thường tổn hại nếu bên mua không áp dụng các biện pháp cần thiết mà khả năng cho phép nhằm ngăn chặn, hạn chế tổn hại.”
Như đã trình bày ở trên, điều khoản nghĩa vụ bảo hành trong hợp đồng mua bán tài sản là một điều khoản do các bên tự thoả thuận nhưng không được trái với pháp luật khi ký kết hợp đồng mua bán tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra những rủi ro mà không thuộc những trường hợp đã nêu trên thì pháp luật đã quy định về vấn đề bồi thường tổn hại trong thời hạn bảo hành. Đây là một chế định nhằm bảo đảm về việc bên mua có quyền yêu cầu bên bán bồi thường tổn hại do khuyết tật về kỹ thuật cảu vật gây ra trong thời hạn bảo hành. Trong trường hợp bên bán chứng minh được lỗi khuyết tật đó không phải do bên mình thì bên bán sẽ không phải bồi thường tổn hại. Khi bên bán không áp dụng các biện pháp cần thiết trong thời hạn bảo hành mà khả năng cho phép nhằm ngăn chặn, hạn chế tổn hại thì bên bán sẽ được giảm mức bồi thường tổn hại.