Trong một số trường hợp để ngăn chặn tội phạm một cách kịp thời thì đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thực hiện các biện pháp tạm giữ người và người bị bắt trong các trường hợp như thế này được gọi là người tạm giữ. Để nghiên cứu xem khi bị bắt một cách khẩn cấp như vậy thì người bị tạm giữ có quyền gì thông qua phân tích Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về người tạm giữ. Hãy theo dõi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group để được trả lời câu hỏi.
1. Khái niệm về người bị tạm giữ.
Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.
Khác với bị can, bị cáo người bị tạm giữ không có quyết định khởi tố về hình sự, nhưng họ bị bắt trong các trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, theo quyết định truy nã hoặc trong trường hợp tự thú, đầu thú. Người bị tạm giữ bị tạm giữ để Cơ quan điều tra làm sáng tỏ những đặc điểm nhân thân hoặc hành vi của họ bị nghi là tội phạm. Nếu hết thời hạn tạm giữ mà không có căn cứ để khởi tố bị can, thì người bị tạm giữ phải được trả tự do.
Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp là người đã có lệnh giữ của người có thẩm quyền theo quy đinh của pháp luật, tức là bị giữ khi thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
– Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
– Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
– Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi công tác hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang là người bị bắt khi đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.
Người bị bắt theo quyết định truy nã là người bị bắt khi bị truy tìm bởi quyết định của đơn vị có thẩm quyền theo hướng dẫn của pháp luật.
Người bị tạm giữ có thể là người chưa bị khởi tố về hình sự như người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc người phạm tội tự thú. Mặc dù họ chưa bị khởi tố về hình sự nhưng trên thực tiễn họ vẫn phải chịu sự cưỡng chế của đơn vị tạm giữ họ. Họ bị hạn chế quyền tự do, bị buộc phải khai báo hoặc trả lời các câu hỏi của người có thẩm quyền điều tra. Chính vì lẽ đó, pháp luật coi người bị tạm giữ là người tham gia tố tụng, có các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định.
Mặt khác người bị tạm giữ cũng có thể là người đã bị khởi tố về hình sự. Bị can, bị cáo, người bị kết án chưa chấp hành án, người đang chấp hành án, nếu bị bắt theo quyết định truy nã hoặc đầu thú và đã có quyết định tạm giữ đối với họ thì cũng là người bị tạm giữ.
2. Quyền của người bị tạm giữ.
Căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 59 Bộ luật Tố tụng năm 2015 thì người bị tạm giữ có những quyền có sau đây:
– Được biết lý do mình bị tạm giữ; nhận quyết định tạm giữ, quyết định gia hạn tạm giữ, quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và các quyết định tố tụng khác theo hướng dẫn của Bộ luật này;
– Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này. Các đơn vị có thẩm quyền khi tạm giữ người phải thông báo và giải thích các quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ cho họ biết.
– Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Người bị tạm giữ có quyền trình bày về những vấn đề có liên quan đến việc họ bị bắt, giữ, bị truy nã, tự thú, đầu thú. Đây là quyền, không phải là nghĩa vụ của họ, vì vậy họ không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội. Đây là quyền để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người bị tạm giữ, tránh tình huống bị ép đưa ra lời khai.
– Tự bào chữa, nhờ người bào chữa. Người bị tạm giữ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; người bị tạm giữ có quyền đưa ra những lí lẽ chứng minh mình không phạm tội, không liên quan đến sự việc là lí do bắt giữ họ; có quyền nhờ người khác bào chữa cho mình.
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêucầu. Người bị tạm giữ có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật. Đây là quyền mà không phải nghĩa vụ của họ, họ có thể đưa ra những tài liệu, đồ vật nhằm chứng minh họ không liên quan đến vụ việc mà vì đó họ bị bắt giữ. Họ cũng có quyền yêu cầu xác minh lại sự việc, yêu cầu đơn vị điều tra đưa ra những bằng chứng được coi là căn cứ bắt giữ họ…
– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng về việc tạm giữ. Người bị tạm giữ có quyền khiếu nại về việc tạm giữ nếu thấy việc mình bị tạm giữ là sai trái và không có căn cứ, khiếu nại các quyết định khác có liên quan như khám nhà, khám người, tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét… Khiếu nại này được gửi cho người có thẩm quyền để xem xét và giải quyết.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì ngoài những quyền nêu trên của người bị tạm giữ thì người bị tạm giữ còn có nghĩa vụ chấp hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Luật thi hành tạm giữ, tạm giam.
Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu về quyền của người bị tạm giữ trong Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nội dung nội dung trình bày có đề cập đến khái niệm và các trường hợp bị tạm giữ, quyền và nghĩa vụ của họ khi bị bắt tạm giữ được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thế nào. Nếu trong quá trình nghiên cứu, quý bạn đọc còn có vấn đề cần được trả lời hay có quan tâm đến các dịch vụ tư vấn do LVN Group gửi tới, vui lòng truy cập địa chỉ trang web: https://lvngroup.vn/ để được trả lời câu hỏi một cách chi tiết.