1. Vướng mắc trong quy định:
– Thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 07 ngày, gây khó khăn cho việc xử phạt của đơn vị có thẩm quyền vì thời hạn này có thể kết thúc vào ngày nghỉ hàng tuần, dẫn đến việc không ban hành được Quyết định XPVPHC (đơn vị tham mưu cần có thời gian để tập hợp hồ sơ, đề xuất cách thức xử phạt…). Do đó, đề xuất điều chỉnh thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 07 ngày công tác hoặc 10 ngày công tác để đảm bảo cho công tác xử phạt VPHC được thực hiện.
– Theo Khoản 4, Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định thời hạn tạm giữ tang vật vi phạm 24 giờ là quá ngắn, khó thực hiện, cần có văn bản hướng dẫn chi tiết trong việc thực hiện.
– Việc quy định thời hạn xử phạt hành chính một năm là chưa đảm bảo tính nghiêm minh trong trường hợp người dân cố tình vi phạm (không gửi tới trọn vẹn hoặc đăng ký hồ sơ khi đăng ký khai sinh không có tên người cha). Sau hai năm, người dân gửi tới Giấy chứng nhận Kết hôn (GCN Kết hôn đã đăng ký trước ngày đăng ký khai sinh ), yêu cầu bổ sung tên người cha trong trường hợp người cha là người nước ngoài hoặc người Việt Nam có quốc tịch nước ngoài thì UBND quận phải thu hồi nhưng không thể xử phạt cách thức phạt tiền vì đã hết thời hiệu xử phạt.
2. Những khó khăn, vướng mắc, bất cập trong tổ chức thực hiện các nội dung quy định của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP
Một là, căn cứ để thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ quyết định về xử lý vi phạm hành chính
– Điểm h khoản 1 Điều 37 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định một trong những nhiệm vụ quyền hạn của Chánh án Tòa án trong giải quyết vụ án hành chính:
“ Kiến nghị với đơn vị, cá nhân có văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản, chấm dứt hành vi đó nếu phát hiện có dấu hiệu trái với quy định của pháp luật;”
– Điểm h khoản 2 Điều 31 Luật khiếu nại năm 2011 quy định quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính phải có các nội dung sau đây:
“ Giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại; giải quyết các vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại;”
Tương tự, tại điểm h khoản 2 Điều 40 Luật khiếu nại năm 2011 quy định quyết định giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính phải có các nội dung sau đây:
“ Kết luận nội dung khiếu nại là đúng, đúng một phần hoặc sai toàn bộ. Trường hợp khiếu nại là đúng hoặc đúng một phần thì yêu cầu người có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại sửa đổi, hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại. Trường hợp kết luận nội dung khiếu nại là sai toàn bộ thì yêu cầu người khiếu nại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan thực hiện nghiêm chỉnh quyết định hành chính, hành vi hành chính;
Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 6a Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo khoản 8 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) lại không quy định các trường hợp này là căn cứ để thực hiện việc sửa đổi, bổ sung quyết định về xử lý vi phạm hành chính.
Tương tự, là căn cứ để hủy bỏ quyết định về xử lý vi phạm hành chính quy định tại Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP).
Hai là, căn cứ để ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính
Tại điểm b khoản 3 Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) quy định việc người đã ban hành quyết định phải ban hành quyết định mới hoặc chuyển người có thẩm quyền ban hành quyết định mới trong trường hợp:
“Có bản án, quyết định của Tòa án về việc hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định về xử lý vi phạm hành chính bị khởi kiện.”
Quy định như vậy là không hợp lý, không cần thiết, vì khi quyết định về xử lý vi phạm hành chính bị hủy bỏ một phần thì chỉ phần nội dung bị hủy bỏ đó không còn hiệu lực thi hành, các nội dung khác của quyết định vẫn còn hiệu lực thi hành.
Ba là, về trình tự, thủ tục thực hiện việc hủy bỏ ban hành mới quyết định về xử lý vi phạm hành chính
Hiện nay, theo hướng dẫn pháp luật hiện hành, để chấm dứt hiệu lực của quyết định về xử phạt vi phạm hành chính đã ban hành có sai sót và ban hành quyết định mới thay thế quyết định đã bị chấm dứt hiệu lực, phải trải qua hai thủ tục, tương ứng với hai thủ tục đó, người có thẩm quyền phải ban hành hai loại quyết định, trước tiên là quyết định hủy bỏ quyết định về xử phạt vi phạm hành chính có sai sót, sau đó là quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính.
Việc ban hành hai loại quyết định như vậy là không cần thiết, có thể nghiên cứu quy định trình tự, thủ tục đơn giản hơn. Theo đó, chỉ cần ban hành một loại quyết định: Quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính, trong đó có nội dung về việc thay thế cho quyết định đã ban hành mà có sai sót.
Bốn là, về giao quyền để áp dụng các biện pháp xử lý hành chính
Khoản 5 Điều 5 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định:
“Người được giao nhiệm vụ đứng đầu đơn vị, đơn vị có thẩm quyền xử phạt, thì có thẩm quyền xử phạt và được giao quyền xử phạt như cấp trưởng.”
Quy định nêu trên, không quy định người được giao nhiệm vụ đứng đầu đơn vị, đơn vị (được giao quyền như cấp trưởng) có thẩm quyền giao quyền để áp dụng các biện pháp xử lý hành chính cho cấp phó được không. Vì hai cách thức này (giao quyền xử phạt và giao quyền để áp dụng các biện pháp xử lý hành chính) là hoàn toàn khác nhau. Từ đó, dẫn đến khó khăn, lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện.
Năm là, về mẫu biên bản vi phạm hành chính
Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ, một số đơn vị thường xuyên công tác với người nước ngoài (Cục Hải quan, đơn vị Công an…) khi phát hiện người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính thì cần phải có người phiên dịch trong quá trình lập biên bản vi phạm. Tuy nhiên, tại mẫu biên bản vi phạm hành chính ban hành kèm theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP lại không có phần thông tin “người phiên dịch”.
Sáu là, về gửi quyết định xử phạt vi phạm hành chính cho đơn vị tư pháp địa phương
Khoản 6 Điều 17 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định:
“Cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, Tòa án nhân dân có thẩm quyền xem xét, quyết định các biện pháp xử lý hành chính, đơn vị thi hành quyết định xử phạt, thi hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt, đơn vị thi hành các quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính có trách nhiệm gửi văn bản, quyết định quy định tại Điều 70, khoản 2 Điều 73, khoản 2 Điều 77, Điều 88, khoản 4 Điều 98, Điều 107, khoản 3 Điều 111, đoạn 2 khoản 3 Điều 112, khoản 1 và khoản 2 Điều 114 tới đơn vị quản lý cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính của Bộ Tư pháp, đơn vị tư pháp địa phương.”
Tuy nhiên, tại phần “Nơi nhận” của các mẫu quyết định về xử lý vi phạm hành chính được ban hành kèm theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP không có đơn vị tư pháp địa phương. Do vậy, hầu hết các đơn vị, đơn vị của người có thẩm quyền xử phạt chưa gửi quyết định xử phạt vi phạm hành chính cho đơn vị tư pháp địa phương để theo dõi, tổng hợp theo hướng dẫn.
Bảy là, về cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính
Điều 23 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính, theo đó quy định việc xây dựng, quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu quốc gia được thực hiện theo nghị định quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính. Ngày 30/3/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 20/2016/NĐ-CP quy định Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 13/2016/TT-BTP ngày 30/12/2016 quy định quy trình gửi tới, tiếp nhận, cập nhật thông tin và khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, đến nay Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính vẫn chưa được triển khai, xây dựng, từ đó ít nhiều đã ảnh hưởng đến công tác quản lý, theo dõi tình hình thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung và việc xác định vi phạm hành chính nhiều lần, tái phạm nói riêng.Những hạn chế, khó khăn khi áp dụng Nghị định 81/2013/NĐ-CP