Những vướng mắc, bất cập của Luật Tố tụng hành chính 2015 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Những vướng mắc, bất cập của Luật Tố tụng hành chính 2015

Những vướng mắc, bất cập của Luật Tố tụng hành chính 2015

Vướng mắc luật tố tụng hành chính 2015 được nhiều người quan tâm. Có thể nói, luật tố tụng hành chính 2015 ra đời có nhiều điểm mới, thay đổi cần thiết và khắc phục được nhiều điểm còn hạn chế ở Luật cũ. Tuy nhiên, luật này khi áp dụng thực tiễn vẫn còn tồn tại một số vướng mắc nhất định gây ra khó khăn trong quá trình xét xử. Trong nội dung trình bày này, Luật LVN Group sẽ liệt kê một số vướng mắc, bất cập của Luật tố tụng hành chính 2015 để bạn đọc nắm rõ hơn.

1. Vướng mắc về việc xác định người bị kiện trong vụ án hành chính

Khoản 4 Điều 32 Luật TTHC năm 2015 quy định trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp tỉnh:

“Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Toà án”.

Tuy nhiên nếu trong trường hợp đương sự khởi kiện cả quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện vừa kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong cùng một vụ án thì người bị kiện trong trường hợp này được xác định thế nào?

2. Vướng mắc về thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp tỉnh

Khoản 8 Điều 32 Luật TTHC năm 2015 quy định:

“Trường hợp cần thiết, Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp huyện theo hướng dẫn tại Điều 31 của Luật này”.

Ở đây, không có quy định cụ thể những loại việc nào Toà án cấp tỉnh được lấy lên để giải quyết.

3. Vướng mắc về thụ lý vụ án trong trường hợp người khởi kiện gửi đơn thông qua cổng thông tin điện tử

Theo quy định tại khoản 3 Điều 119 Luật TTHC thì người khởi kiện có thể nộp đơn khởi kiện đến tòa án bằng phương thức gửi trực tuyến thông qua cổng thông tin điện tử của tòa án. Mặt khác, tại khoản 2 Điều 118 lại quy định:

“Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp trọn vẹn các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Các tài liệu, chứng cứ khác, người khởi kiện phải tự mình bổ sung theo yêu cầu của tòa án trong quá trình giải quyết vụ án”.

Mâu thuẫn ở chỗ căn cứ thụ lý vụ án thì tòa án phải dựa vào nội dung đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, mà các tài liệu, chứng cứ đương sự nộp cho tòa án phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực. Vì vậy, trong trường hợp người khởi kiện gửi đơn khởi kiện thông qua cổng thông tin điện tử thì việc thụ lý sẽ được thực hiện thế nào? Vì thông qua cổng thông tin điện tử thì các tài liệu, chứng cứ mà người khởi kiện gửi tới sẽ không đảm bảo theo hướng dẫn tại Điều 82 Luật TTHC, (đó là nguyên tắc xác định chứng cứ).

4. Vướng mắc về việc xem xét, kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện 

Khoản 1 Điều 124 Luật TTHC năm 2015 quy định:

“Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện”.

Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào thông báo trả lại đơn khởi kiện mà không có đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo thì rất khó để Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến nghị. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát cũng chỉ có thể kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án khi Tòa án gửi thông báo trả lại đơn khởi kiện cho Viện kiểm sát, trường hợp Tòa án không gửi thông báo thì Viện kiểm sát không thể thực hiện chức năng kiểm sát vì Luật TTHC năm 2015 không có điều khoản nào quy định Viện kiểm sát được quyền kiểm sát trực tiếp tại Tòa án về việc xem xét và thụ lý đơn khởi kiện, điều này sẽ ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của người khởi kiện.

Đây là vướng mắc mà trong quá trình thi hành Luật TTHC năm 2010 đã gặp phải dẫn đến hiệu quả kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án chưa cao, đến khi Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực thì vẫn đề này vẫn chưa được sửa đổi. Về trình tự, thủ tục phiên họp  được tiến hành thế nào; chứng cứ, tài liệu có được chuyển cho Viện kiểm sát để nghiên cứu trước khi đưa ra phiên họp được không?…

5. Vướng mắc về thời hạn chuẩn bị xét xử

Theo quy định tại điểm a, b khoản 2, 3 Luật TTHC năm 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện:

“(2) Thời hiệu khởi kiện đối với từng trường hợp được quy định như sau:

(a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc;

(b)30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh;

(3) Trường hợp đương sự khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật đến đơn vị nhà nước, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:

(a) 01 năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;

(b) 01 năm kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại theo hướng dẫn của pháp luật mà đơn vị nhà nước, người có thẩm quyền không giải quyết và không có văn bản trả lời cho người khiếu nại”.
Khoản 1, 2 Điều 130 Luật TTHC cũng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử:

“(1) 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật này;

(2) 02 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 116 của Luật này.”

Khoản 1, 2 Điều 130 Luật TTHC năm 2015 chỉ quy định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với trường hợp quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 116, còn các trường hợp quy định tại điểm a, b khoản 3 Điều 116 lại không có quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử, do đó khi thụ lý giải quyết đối với những trường hợp này thì Tòa án áp dụng thời gian chuẩn bị xét xử là 02 tháng, có nơi thì áp dụng 04 tháng dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất.

6. Vướng mắc về người uỷ quyền

Theo quy định tại khoản 3, 5, 7 Điều 60 Luật tố tụng hành chính 2015 thì:

“ (3)Người uỷ quyền theo ủy quyền trong TTHC phải là người có năng lực hành vi dân sự trọn vẹn, được đương sự hoặc người uỷ quyền theo pháp luật của đương sự ủy quyền cho một thành viên hoặc người khác làm uỷ quyền tham gia tố tụng; Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia TTHC thì các thành viên có thể ủy quyền cho một thành viên hoặc người khác làm uỷ quyền tham gia TTHC; Trường hợp người bị kiện là đơn vị, tổ chức hoặc người đứng đầu đơn vị, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình uỷ quyền. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện trọn vẹn các quyền, nghĩa vụ của người bị kiện theo hướng dẫn của Luật này…;

(5) Người uỷ quyền theo pháp luật trong TTHC thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTHC của đương sự mà mình là uỷ quyền; Người uỷ quyền theo ủy quyền trong TTHC thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTHC của người ủy quyền, người được ủy quyền không được ủy quyền lại cho người thứ ba;

(7) Cán bộ, công chức trong các đơn vị Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra, Thi hành án; công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an không được làm người uỷ quyền trong TTHC trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách là người uỷ quyền cho đơn vị của họ hoặc với tư cách là người uỷ quyền theo pháp luật”.

Vì vậy, kể từ ngày 01/4/2016 thì việc cử người uỷ quyền trong TTHC trước Tòa án nhân dân phải theo đúng quy định tại Điều 60 của Luật này. Khi tham gia TTHC, UBND thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Luật. UBND có quyền tự bảo vệ, nhờ Luật sư hoặc người khác bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình (khoản 11 Điều 55), khi nhờ Luật sư thì Luật sư là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND theo hướng dẫn tại Điều 61 Luật TTHC chứ không phải là người uỷ quyền, nhưng thực tiễn có rất nhiều vụ án tại các địa phương đã được tòa án đưa ra giải quyết thì người bị kiện ủy quyền toàn bộ cho Luật sư thực hiện, lúc này Luật sư sẽ giữ hai vai vừa là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người bị kiện, vừa là người được ủy quyền, đây chính là điểm bất cập của Luật.

Sau đó, Chánh án TAND tối cao đã có văn bản hướng dẫn yêu cầu thực hiện nghiêm túc Điều 60 Luật TTHC và đã có văn bản hướng dẫn thi hành điểm c khoản 2 Điều 61 Luật TTHC đó là các bộ, công chức được tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện là Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố.

Trên đây, Công ty Luật LVN Group – Đồng hành pháp lý cùng bạn đã liệt kê một số vướng mắc luật tố tụng hành chính 2015. Đối với sự tin cậy của khách hàng, Luật LVN Group sẽ luôn cố gắng hơn nữa để khách hàng có được sự hài lòng nhất. Nếu có câu hỏi gì thêm về các vấn đề liên quan hay những vấn đề khác quý khách hàng có thể liên hệ trực tiếp với chúng tôi. Công ty Luật LVN Group luôn sẵn sàng hỗ trợ quý khách hàng!

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com