Hằng năm có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Trong đó Bộ luật Tố tụng hình sự cũng đã được sửa đổi, bổ sung và ban hành văn bản mới nhiều lần. Vậy làm thế nào để xác định hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện nay hay hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự có phạm vi áp dụng thế nào. Để phân tích hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện nay, hãy theo dõi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group để được trả lời câu hỏi.
1. Hiệu lực của văn bản pháp luật là gì?
Hiệu lực của văn bản pháp luật là tính bắt buộc thi hành của văn bản pháp luật trong một giai đoạn nhất định, trên một không gian nhất định và đối với những chủ thể pháp luật nhất định (cá nhân, đơn vị, tố chức). Hiệu lực pháp luật còn là giá trị pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật để thi hành hoặc áp dụng văn bản đó, thể hiện thứ bậc cao thấp của văn bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, thể hiện phạm vi tác động hoặc phạm vi điều chỉnh của văn bản về thời gian, không gian và về đối tượng áp dụng. Hiệu lực gồm hiệu lực theo không gian và hiệu lực theo thời gian.
– Hiệu lực theo không gian là hiệu lực được xác định trên phạm vi lãnh thổ nhất định.
– Hiệu lực theo thời gian là giới hạn xác định thời gian phát sinh và thời gian chấm dứt hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, là giá trị tác động của văn bản quy phạm pháp luật đến các quan hệ xã hội phát sinh từ thời gian bắt đầu có hiệu lực pháp luật đến thời gian chấm dứt.
2. Hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Hiện nay, hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự được quy định tại Điều 3 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
– Hiệu lực theo không gian của Bộ luật Tố tụng hình sự: Căn cứ theo khoản 1 Điều 3 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự có hiệu lực đối với mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Theo đó, mọi hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự được tiến hành trên lãnh thổ Việt Nam đều phải tuân thủ những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Theo quy định của Điều 1 Hiến pháp năm 2013 thì lãnh thổ bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời. Do đó, những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam là phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Theo Công ước luật biển năm 1982 và Công ước Chicago năm 1944, các tàu chiến Việt Nam treo quốc kỳ Việt Nam đang có mặt ở vùng biển cả, ở vùng lãnh hải hoặc cảng biển của một quốc gia khác; các tàu dân sự của Việt Nam đang treo quốc kỳ Việt Nam có mặt tại biển cả; các máy bay của Việt Nam đang bay ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng được coi là lãnh thổ Việt Nam. Trường hợp bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu xét xử ở Việt Nam cũng phải được tiến hành theo hướng dẫn của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Về nguyên tắc, hoạt động tố tụng đối với hành vi phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án Việt Nam – nơi tội phạm được thực hiện hoặc nơi kết thúc điều tra. Tuy nhiên, đối với trường hợp người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì căn cứ theo khoản 2 Điều 3 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì hiệu lực của Bộ luật tố tụng hình sự trong trường hợp này là hoạt động tố tụng hình sự đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tiến hành theo hướng dẫn của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.
Trường hợp người nước ngoài thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc tập cửa hàng quốc tế thì được giải quyết theo hướng dẫn của điều ước quốc tế hoặc tập cửa hàng quốc tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó không quy định hoặc không có tập cửa hàng quốc tế thì được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
– Hiệu lực theo thời gian của Bộ luật Tố tụng hình sự: Căn cứ theo khoản 1 Điều 509 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Kể từ ngày có hiệu lực, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thay thế Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29 tháng 6 năm 2016 về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 và Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật tổ chức đơn vị điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 và bổ sung Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số diều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2016, đồng thời tiếp tục áp dụng Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 37/2009/QH12); Bộ luật Tố tụng hình sự số 19/2003/QH11… cho đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu lực thi hành.
Theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13… kể từ ngày 01/01/2018, Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 có hiệu lực thi hành.
Thời điểm kết thúc hiệu lực thời gian của Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng dẫn tại Điều 154 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 gồm các trường hợp sau:
+ Hết thời hạn có hiệu lực đã được quy định cụ thể trong văn bản;
+ Được thay thế bằng văn bản quy phạm pháp luật mới của chính đơn vị nhà nước đã ban hành văn bản đó;
+ Bị bãi bỏ bằng một văn bản của đơn vị nhà nước có thẩm quyền;
+ Văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thì văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết thi hành các điều, khoản, điểm được giao quy định chi tiết thi hành văn bản đó đồng thời hết hiệu lực;
+ Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật được quy định chi tiết hết hiệu lực một phần và không thể xác định được nội dung hết hiệu lực của văn bản quy định chi tiết thi hành thì văn bản quy định chi tiết thi hành đó hết hiệu lực toàn bộ;
+ Trường hợp một văn bản quy định chi tiết nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó chỉ có một hoặc một số văn bản được quy định chi tiết hết hiệu lực và không thể xác định được các nội dung hết hiệu lực của văn bản quy định chi tiết thi hành thì văn bản quy định chi tiết thi hành đó hết hiệu lực toàn bộ.
Trên đây là toàn bộ nội dung nội dung trình bày phân tích về hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện nay. Nội dung nội dung trình bày có giới thiệu về khái niệm hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật, các loại hiệu lực và phân tích hiệu lực của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện nay theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nếu trong quá trình nghiên cứu, quý bạn đọc còn có vấn đề cần trả lời hay có quan tâm đến các dịch vụ tư vấn do LVN Group gửi tới, vui lòng truy cập địa chỉ trang web sau đây: https://lvngroup.vn/ để được tư vấn trả lời vấn đề câu hỏi một cách chi tiết nhất.