Hiện nay, pháp nhân là tổ chức được thành lập khi đáp ứng đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định cụ thể về vấn đề này, Luật LVN Group xin gửi đến quý bạn đọc nội dung trình bày: “Pháp nhân theo bộ luật dân sự 2005”.
1. Quy định chung và cách hiểu về pháp nhân
Pháp nhân là một chủ thể quan hệ pháp luật dân sự, khác với thể nhân (cá nhân) là một con người, một cá nhân riêng biệt, pháp nhân là một tổ chức, nhưng không phải là một tổ chức bất kì mà chỉ là những tổ chức có đủ các điều kiện do pháp luật quy định.
Căn cứ theo Điều 84 Bộ luật dân sự năm 2005, một tổ chức được coi là pháp nhân, khi có đủ các điều kiện: được thành lập hợp pháp (được thành lập theo sáng kiến của cá nhân, tổ chức hoặc theo quyết định của đơn vị nhà nước có thẩm quyền); có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Theo đó, pháp nhân bao gồm: đơn vị nhà nước, đơn vị vũ trang; tổ chức chính trị, chính trị – xã hội; tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp; quỹ xã hội, quỹ từ thiện; các tổ chức khác khi có đủ điều kiện.
Bộ luật Dân sự hiện hành có những thay đổi gì so với Bộ luật Dân sự năm 2005 trước đó? Sau đây là phần phân tích một số điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005.
2. Khái niệm về pháp nhân
Ngoài cá nhân tham gia vào các quan hệ dân sự còn có các đơn vị, tổ chức và các chủ thể khác. Để các tổ chức tham gia vào các quan hệ dân sự với tư cách là một chủ thể riêng biệt trong các quan hệ xã hội nói chung, các quan hệ pháp luật nói riêng, các tổ chức này phải có các điều kiện do pháp luật quy định. Pháp luật dân sự đưa ra khái niệm pháp nhân nhằm phân biệt với thể nhân (tự nhiên nhân) là những cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật.
Những dấu hiệu của một tổ chức có tư cách pháp nhân được xác định như sau:
– Sự tồn tại độc lập của pháp nhân mà không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên trong pháp nhân đó. Vì vậy, pháp nhân được được coi là “cá thể riêng biệt”, có ý chí riêng, có “đời sống” riêng, không trùng hợp với ý chí và đời sống của thành viên pháp nhân đó.
– Có tài sản riêng, độc lập với tài sản của các thành viên của nó;
– Có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản và thực hiện những hành vi pháp lý nhân danh mình;
– Có quyền làm nguyên đơn, bị đơn trước toà án;
– Trách nhiệm độc lập về tài sản.
Khái niệm pháp nhân trong các văn bản pháp luật trước đây của Nhà nước ta được đề cập ở dạng mô tả các dấu hiệu của pháp nhân như Thông tư số 525 ngày 26/3/1975 của Trọng tài kinh tế, Nghị định số 17 ngày 16/01/1990 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Pháp lệnh hợp đồng dân sự ngày 01/7/1991. Các dấu hiệu (điều kiện) được quy định ở Thông tư số 525 và Nghị định số 17 đặc trưng cho các pháp nhân là các tổ chức kinh tế trong điều kiện kế hoạch hóa nền sản xuất, Pháp lệnh hợp đồng dân sự mô tả các dấu hiệu của pháp nhân có tính chất chung và bao quát các pháp nhân ở mọi dạng, thể loại. Điều 84 BLDS năm 2005 mô tả các dấu hiệu (điều kiện) của một tổ chức có tư cách pháp nhân là:
– Được thành lập một cách hợp pháp;
– Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
– Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
– Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Qua các văn bản pháp luật đã ban hành và tính chất chủ thể trong các quan hệ dân sự, kinh tế có thể đưa ra khái niệm pháp nhân như sau:
Pháp nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
3. Các điều kiện của pháp nhân theo luật dân sự
Các điều kiện của pháp nhân là các dấu hiệu để công nhận một tổ chức có tư cách là chủ thể của quan hệ dân sự. Các điều kiện của pháp nhân được xác định tại Điều 84 BLDS năm 2005
3.1. Được thành lập một cách hợp pháp
Một tổ chức được coi là hợp pháp nếu có mục đích, nhiệm vụ hợp pháp và được thành lập hợp pháp theo trình tự và thủ tục do luật định. Tổ chức hợp pháp được Nhà nước công nhận dưới các dạng: đơn vị nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận. Nhà nước bằng các quy định về thẩm quyền ra quyết định thành lập, trình tự, thủ tục thành lập, điều kiện thành lập các tổ chức chi phối đến các tổ chức tồn tại trong xã hội. Việc công nhận sự tồn tại một tổ chức phụ thuộc vào hoạt động của tổ chức đó có phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị được không. Một khi sự tồn tại của một tổ chức (không chỉ là tổ chức chính trị) có nguy cơ đến sự tồn tại của nền tảng xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích của giai cấp thống trị thì Nhà nước không cho phép nó tồn tại. Bởi vậy, chỉ những tổ chức hợp pháp được Nhà nước công nhận sự tồn tại mới có thể trở thành chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật. Trong thực tiễn mỗi pháp nhân được thành lập theo một trình tự riêng phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ của pháp nhân đó (quyết định thành lập, cho phép, công nhận).
3.2. Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ
Trước tiên, tổ chức là một tập thể người được sắp xếp dưới một hình thái nào đó (doanh nghiệp, công ty, bệnh viện, trường học, hợp tác xã…) phù hợp với chức năng và lĩnh vực hoạt động, đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của loại hình tổ chức đó. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhằm biến một tập thể người thành một thể thống nhất (một chủ thể) có khả năng thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ của tổ chức đó đặt ra khi thành lập. Việc chọn lựa cách thức tổ chức thế nào căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ của tổ chức đó, căn cứ vào cách thức góp vốn thành tài sản của tổ chức, ngoài ra có thể còn do tính chất, truyền thống về loại hình tổ chức và cả loại tên gọi của các tổ chức đó. Thống nhất về tổ chức được quy định trong quyết định thành lập, trong điều lệ mẫu, trong các văn bản pháp luật, trong điều lệ của từng loại tổ chức hay từng tổ chức đơn lẻ.
Pháp nhân phải là một tổ chức độc lập. Một tổ chức độc lập hoàn toàn theo nghĩa rộng không tồn tại trên thực tiễn mà bất kỳ một tổ chức nào cũng bị chi phối theo dạng này hay dạng khác của cá nhân trong tổ chức đó, của các tổ chức khác và của Nhà nước. Sự độc lập của tổ chức được coi là pháp nhân chỉ giới hạn trong quan hệ dân sự, kinh tế, lao động với các chủ thể khác. Trong các lĩnh vực này, tổ chức không bị chi phối bởi các chủ thể khác khi quyết định các vấn đề có liên quan đến nhiệm vụ của tổ chức đó trong phạm vi điều lệ, quyết định thành lập và các quy định của pháp luật đối với tổ chức đó. Pháp nhân có ý chí riêng và hành động theo ý chí của mình, chỉ với sự độc lập mà pháp luật thừa nhận thì một tổ chức mới có thể trở thành một chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật. Sự tồn tại độc lập của tổ chức còn thể hiện ở chỗ nó không phụ thuộc vào sự thay đổi các thành viên của pháp nhân (kể cả đơn vị pháp nhân). Có rất nhiều tổ chức thống nhất nhưng không độc lập như các phòng, ban, khoa… trong các trường học, các tổ chức là một bộ phận của pháp nhân. Pháp nhân có đơn vị khác theo quyết định của pháp nhân hoặc theo hướng dẫn của pháp luật.
3.3. Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình
Để một tổ chức tham gia vào các quan hệ tài sản với tư cách là chủ thể độc lập thì tổ chức đó phải có tài sản riêng của mình – tài sản độc lập. Tài sản riêng của pháp nhân không chỉ là tài sản thuộc sở hữu của pháp nhân (như đối với các công ty, các hợp tác xã dù nguồn vốn hình thành có thể khác nhau…) mà có thể được Nhà nước giao cho tổ chức được quyền quản lý của pháp nhân đó. Tài sản của pháp nhân độc lập với tài sản của cá nhân – thành viên của pháp nhân, độc lập với đơn vị cấp trên của pháp nhân và các tổ chức khác. Tài sản độc lập của pháp nhân là tài sản thuộc quyền của pháp nhân hóa, do pháp nhân chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong phạm vi nhiệm vụ và phù hợp với mục đích của pháp nhân. Tài sản của pháp nhân thể hiện dưới dạng vốn, các tư liệu sản xuất và các loại tài sản khác phù hợp với từng loại pháp nhân. Tài sản của pháp nhân được hình thành trên những cơ sở khác nhau dưới dạng được Nhà nước giao để thực hiện chức năng (các pháp nhân là lực lượng vũ trang) được giao theo pháp luật về doanh nghiệp nhà nước; được chuyển giao quyền sở hữu cho các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội; từ nguồn vốn đóng góp của các thành viên; từ hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp… Tài sản của pháp nhân có thể thuộc sở hữu nhà nước hoặc thuộc cách thức sở hữu hỗn hợp hoặc các cách thức sở hữu khác nhưng các pháp nhân thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt như một chủ sở hữu trong khuôn khổ điều lệ hoặc quyết định thành lập pháp nhân ghi nhận.
Trên cơ sở có tài sản riêng, pháp nhân phải chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của mình. Pháp nhân tham gia vào các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân thân như một chủ thể độc lập và phải chịu trách nhiệm về những hành vi được coi là “hành vi của pháp nhân”. Cơ quan cấp trên không chịu trách nhiệm thay hoặc trách nhiệm bổ sung cho pháp nhân. Pháp nhân không chịu trách nhiệm thay cho đơn vị quản lý cấp trên của pháp nhân hoặc cho thành viên của pháp nhân. Các thành viên của pháp nhân không phải dùng tài sản riêng của mình để thực hiện các nghĩa vụ của pháp nhân.
Trách nhiệm của pháp nhân thuộc dạng trách nhiệm “hữu hạn” trong phạm vi tài sản riêng của pháp nhân. Độc lập về tài sản và chịu trách nhiệm bằng tài sản riêng của pháp nhân là tiền đề vật chất để một tổ chức tham gia vào quan hệ dân sự như là một chủ thể độc lập.
3.4. Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập, có thể là nguyên đơn, bị đơn trước tòa án
Với tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư cách riêng, có khả năng hưởng quyền và gánh chịu các nghĩa vụ dân sự do pháp luật quy định phù hợp với điều lệ của pháp nhân. Pháp nhân không “núp” dưới danh nghĩa của tổ chức khác, cũng không được phép cho người khác “núp” dưới danh nghĩa của mình để hoạt động. Khi pháp nhân không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc có gây tổn hại cho cá nhân hoặc pháp nhân khác thì pháp nhân có thể là bị đơn trước toà án. Ngược lại, cá nhân hoặc pháp nhân khác không thực hiện nghĩa vụ, hoặc gây tổn hại cho pháp nhân thì pháp nhân có quyền khởi kiện trước tòa án để bảo vệ quyền lợi của mình.
Việc phân định các điều kiện của pháp nhân thành ba hay bốn là tuỳ thuộc vào cách sắp xếp trong các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, pháp nhân ở bất cứ hệ thống pháp luật nào cũng phải thoả mãn các điều kiện chung nhất bao gồm:
– Tiền đề về tổ chức để biển một tập thể người thành một chủ thể độc lập và hợp pháp để tham gia vào các quan hệ pháp luật;
– Tiền đề vật chất để tham gia vào các quan hệ tài sản và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
– Tổng hợp các tiền để tổ chức và vật chất để một tổ chức có tư cách chủ thể tham gia vào các quan hệ tài sản, các quan hệ nhân thân trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ của pháp nhân quy định.
– Các điều kiện của pháp nhân nêu trên là một thể thống nhất không tách rời nhau, hợp thành tư cách chủ thể của pháp nhân.
4. Dịch vụ tư vấn luật LVN Group
Trên đây là thông tin về Pháp nhân theo bộ luật dân sự 2005mà Công ty Luật LVN Group gửi đến quý bạn đọc tham khảo. Nếu cần cung cấp thêm thông tin chi tiết quy định về dân sự, quý khách vui lòng truy cập trang web: https://lvngroup.vn để được trao đổi cụ thể.