Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền

Trải qua thực tiễn lãnh đạo đất nước qua các thời kỳ lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, phát triển về tư duy lý luận và năng lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, trở thành một quốc gia ngày càng phát triển, góp phần khẳng định và nâng cao vị thế Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.Để bạn đọc hiểu rõ hơn, chúng tôi sẽ hướng dẫn qua nội dung trình bày dưới đây: Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền.

Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền

1. Khái niệm về Đảng Cầm quyền

“Đảng cầm quyền” là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, chỉ một đảng chính trị uỷ quyền cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình. Đối với Đảng ta, khái niệm “Đảng cầm quyền” là để chỉ vai trò của Đảng khi đã giành được chính quyền; cũng có nghĩa là Đảng lãnh đạo khi đã có chính quyền; Đảng lãnh đạo toàn xã hội bằng chính quyền, thông qua chính quyền và các đoàn thể nhân dân.

Khái niệm “Đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I.Lênin nêu ra. Sau này Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sử dụng các thuật ngữ để nói về vai trò cầm quyền của Đảng như: Đảng giành được chính quyền, Đảng nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng cầm quyền. Trong Di chúc dặn lại, Bác viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Trong Điều lệ Đảng được Đại hội X của Đảng thông qua cũng khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền”.

2. Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng các khái niệm: cách lãnh đạo, lối công tác… của Đảng. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng cho đến trước thời kỳ đổi mới, Đảng ta dùng đồng thời các khái niệm: phương pháp lãnh đạo, phương pháp công tác, phong cách lãnh đạo, phong cách công tác, lề lối công tác, quy chế công tác, quy trình công tác… nhưng chủ yếu áp dụng đối với cá nhân cán bộ lãnh đạo, chưa đề cập đối với các tổ chức đảng. Từ Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3-1989) Đảng ta chính thức dùng khái niệm “phương thức lãnh đạo của Đảng” với cách đặt vấn đề “phương thức lãnh đạo” là khái niệm ở tầm tổng quát và cao hơn. Phương thức lãnh đạo của Đảng là tổng thể các cách thức, cách thức, phương pháp, quy chế, quy định, quy trình, lề lối công tác… mà Đảng sử dụng để tác động vào đối tượng lãnh đạo nhằm thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị, đường lối, các nghị quyết và các nội dung lãnh đạo của Đảng trong từng thời kỳ cách mạng.

Nội dung của phương thức lãnh đạo của Đảng (hay các phương thức lãnh đạo của Đảng), lần đầu tiên được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) kế thừa và bổ sung những nội dung cơ bản của phương thức lãnh đạo của Đảng được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điều 41 Điều lệ Đảng do Đại hội XI của Đảng thông qua đã quy định rõ các phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và đoàn thể chính trị – xã hội. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng một lần nữa xác định phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: “Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra, giám sát;… Các tổ chức của Đảng và đảng viên, nhất là tổ chức, đảng viên hoạt động trong các đơn vị nhà nước vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện chủ trương, đường lối, các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(1).

Qua các văn kiện của Đảng, có thể khái quát phương thức lãnh đạo của Đảng gồm: một là, Đảng lãnh đạo bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; hai là, Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động; ba là, Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị và bằng công tác tổ chức, cán bộ; bốn là, Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra, giám sát; năm là, Đảng lãnh đạo bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đó là những cách thức chủ yếu trong phương thức lãnh đạo của Đảng.

Trên thực tiễn, trong hoạt động lãnh đạo, Đảng còn sử dụng nhiều cách thức, biện pháp, quy chế, quy định, quy trình, lề lối công tác cụ thể, như: tổ chức hội nghị phổ biến nghị quyết (trong cấp ủy, tổ chức đảng và đối với cán bộ chủ chốt các tổ chức trong hệ thống chính trị); cách thức giao ban giữa các đơn vị lãnh đạo đảng với lãnh đạo đơn vị nhà nước, MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội; các cuộc công tác giữa uỷ quyền lãnh đạo cấp ủy đảng với lãnh đạo đơn vị nhà nước, MTTQ, các tổ chức chính trị – xã hội; cấp ủy viên cấp ủy cấp trên trực tiếp dự sinh hoạt của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới; đối thoại giữa uỷ quyền cấp ủy, tổ chức đảng với một số cá nhân; chỉ đạo làm thí điểm; xây dựng, hoàn thiện quy chế công tác của cấp ủy, trong đó xác định đúng và rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng tập thể, cá nhân và các chế độ công tác chủ yếu, nhất là chế độ hội họp, chế độ thông tin, chế độ báo cáo; xây dựng các quy chế phối hợp công tác giữa các tổ chức, đơn vị có liên quan; việc phân công cấp ủy viên phụ trách một số tổ chức, một số lĩnh vực; phân công đảng viên theo dõi, phụ trách lĩnh vực công tác, đơn vị, hộ gia đình; tổ chức sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng; sử dụng văn bản và các cách thức thông tin khác; v.v.. Trong đánh giá thực trạng thực hiện phương thức lãnh đạo của Đảng, văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã nhắc đến các cách thức, phương pháp, quy trình cụ thể này. Có thể xem đây là nội hàm của khái niệm “chỉ đạo” vẫn thường được dùng sau từ “lãnh đạo”.

3. Quan hệ giữa phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng

Các phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và được Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định lại. Phương thức lãnh đạo gắn liền với hoạt động lãnh đạo của Đảng, nên được hình thành từ khi Đảng ra đời lãnh đạo cách mạng; là vấn đề cơ bản, xuyên suốt, có tính chất bao trùm và chi phối toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Do Đảng cầm quyền chỉ là Đảng lãnh đạo trong thời kỳ có chính quyền, nên phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền có sự giống nhau trên những nội dung cơ bản, chỉ có sự khác biệt nhất định về phạm vi, mức độ; trong đó, phương thức cầm quyền chỉ hình thành trong thời kỳ Đảng có chính quyền và nhấn mạnh hai nội dung của phương thức lãnh đạo: một là, Đảng sử dụng quyền lực của mình để tác động, chi phối việc xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước; hai là, Đảng bố trí nhân sự chủ chốt của các đơn vị nhà nước, nhất là ở cấp trung ương.

Giữa phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng có quan hệ mật thiết với nhau, vừa tương đồng, vừa có sự khác biệt nhất định. Tương đồng ở chỗ: cả phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền đều là của cùng một chủ thể là Đảng; trong điều kiện có chính quyền, đều tác động tới các đối tượng là Nhà nước, MTTQ, các tổ chức chính trị – xã hội, các lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập và nhân dân; cùng nhằm mục tiêu cao nhất là thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh, chiến lược, đường lối, mục tiêu chính trị của Đảng; đều phải sử dụng các phương pháp tư tưởng, hành chính, tổ chức, kiểm tra, giám sát, nêu gương… Khác biệt ở chỗ: phương thức cầm quyền chú trọng việc chỉ đạo các đơn vị nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa cương lĩnh, chiến lược, đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách và định hướng hoạt động của Nhà nước; nắm công tác tổ chức, cán bộ của Nhà nước bằng việc định hướng kiện toàn tổ chức và đưa cán bộ, đảng viên vào nắm giữ quyền lực và trực tiếp điều hành, thực thi quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực nhà nước; cùng với các phương pháp dân chủ, tuyên truyền, thuyết phục, vận động, Đảng sử dụng quyền lực của Đảng cầm quyền và các nguyên tắc của Đảng để tác động, chi phối hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị.

Tuy nhiên, phương thức cầm quyền thực chất là phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng trong điều kiện có chính quyền, kể cả khi là lực lượng duy nhất cầm quyền, nên sự phân biệt giữa phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo chỉ là tương đối. Ví dụ, Đảng cầm quyền cũng phải sử dụng các biện pháp công tác tư tưởng để tuyên truyền, thuyết phục, vận động và bảo vệ đường lối của Đảng. Đó cũng là phương thức lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động để đưa đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với đội ngũ đảng viên và nhân dân, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Khi nói Đảng cầm quyền bằng tổ chức, bằng công tác cán bộ, bằng công tác tư tưởng… thì khó có thể phân biệt rạch ròi với Đảng lãnh đạo bằng tổ chức, bằng cán bộ, bằng sự tác động tư tưởng.

Trên đây là các nội dung trả lời của chúng tôi về Phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền. Trong quá trình nghiên cứu, nếu như các bạn cần Công ty Luật LVN Group hướng dẫn các vấn đề pháp lý vui lòng liên hệ với chúng tôi để được trả lời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com