Trong một vụ việc hình sự, bị hại là người bị ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi hợp pháp của bản thân. Quy định về bị hại được quy định tại Điều 62 Bộ luật hình sự năm 2015 đã trình bày khái niệm, quyền và nghĩa vụ của bị hại. Nhằm nghiên cứu rõ những chủ thể nào được xác định là bị hại hay quyền và nghĩa vụ của họ được quy định thế nào trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, hãy theo dõi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group để trả lời những câu hỏi trên.
1. Khái niệm bị hại trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì bị hại là cá nhân trực tiếp bị tổn hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là đơn vị, tổ chức bị tổn hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đa dọa gây ra. So với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã mở rộng chủ thể bị hại thêm đơn vị, tổ chức.
Qua khái niệm tại khoản 1 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì có thể thấy bị hại có những đặc điểm sau đây:
– Thứ nhất, về chủ thể bị hại bao gồ cá nhân, đơn vị và tổ chức. Cá nhân này có thể là công dân Việt Nam, công dân nước ngoài… Cơ quan, tổ chức có thể có hoặc không có tư cách pháp nhân, tuy nhiên đơn vị, tổ chức phải được thành lập hợp pháp và đang hoạt động, tồn tại tại thời gian tội phạm xảy ra.
– Thứ hai, về tổn hại do tội phạm gây ra:tổn hại của bị hại là những khách thể được pháp luật bảo vệ gồm: Thiệt hại về thể chất là tổn hại về tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về tinh thần là tổn hại về danh dự, nhân phẩm. Thiệt hại về tài sản là tài sản bị mất, bị chiếm đoạt, bị hủy hoại hoặc bị làm hư hỏng. Những loại tổn hại này là do chính hành vi phạm vội người phạm tội trực tiếp gây ra cho bị hại. Tuy nhiên, cần lưu ý hậu quả của sự tổn hại không phải là điều kiện bắt buộc trong tất cả các trường hợp.
– Thứ ba, về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả gây ra cho bị hại: tổn hại của bị hại phải là đối tượng tác động trực tiếp của tội phạm, mục đích phạm tội của tội phạm là hướng đến việc gây ra những tổn hại đó. Đây là điều kiện cần thiết để phân biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự hay các đương sự khác trong vụ án hình sự.
– Thứ tư, cá nhân, đơn vị, tổ chức bị tổn hại chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là bị hại khi và chỉ khi được đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng công nhận. Đây là điểm khác biệt giữa nguyên đơn dân sự với bị hại đó là nguyên đơn dân sự phải có đơn yêu cầu bồi thường tổn hại mới được tham gia vào quá trình tố tụng còn bị hại khi được công nhận thì sẽ được tham gia vào quá trình tố tụng mà không cần làm đơn yêu cầu.
2. Quyền của bị hại hoặc người uỷ quyền của họ.
Căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì bị hại hoặc người địa diện của họ có những quyền sau đây:
– Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Vì vậy, không chỉ các đơn vị tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có quyền đưa ra các chứng cứ, đồ vật, tài liệu mà bị hại có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu và đồ vật liên quan đến vụ án để chứng minh có được không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội, chứng minh những tổn hại của mình là do hành vi phạm tội gây ra, thậm chí bị hại có thể chứng minh cả những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết quyền lợi của mình như việc giải quyết bồi thường tổn hại và những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.
– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
– Đề nghị giám định, định giá tài sản theo hướng dẫn của pháp luật;
– Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
– Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật. Khi có căn cứ để cho rằng người có thẩm quyền tiến hành tố tụng như điều tra viên, cán bộ điều tra, kiểm sát viên, kiểm tra viên, thẩm phán, hội thẩm, thư ký Tòa án không vô tư trong khi tiến hành tố tụng và người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật không vô tư trong khi tham gia tố tụng thì bị hại có quyền đề nghị thay đổi họ.
– Đề nghị hình phạt, mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;
– Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người khác tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; xem biên bản phiên tòa;
– Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình;
– Tham gia các hoạt động tố tụng theo hướng dẫn của Bộ luật này;
– Yêu cầu đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình, người thân thích của mình khi bị đe dọa;
– Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Các quyền khác theo hướng dẫn của pháp luật.
3. Nghĩa vụ của bị hại.
Căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì bị hại có những nghĩa vụ sau đây:
– Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trường hợp cố ý vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị dẫn giải;
– Chấp hành quyết định, yêu cầu của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Mặt khác theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại thì bị hại hoặc người uỷ quyền của họ sẽ có thêm nghĩa vụ là trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
Căn cứ theo hướng dẫn tại khoản 5 Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì trường hợp bị hại chết, mất tích, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người uỷ quyền thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị hại quy định tại Điều này. Cơ quan, tổ chức là bị hại có sự chia, tách, sáp nhập, hợp nhất thì người uỷ quyền theo pháp luật hoặc tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ của đơn vị, tổ chức đó có những quyền và nghĩa vụ theo hướng dẫn tại Điều này.
Trên đây là toàn bộ nội dung trình bày giới thiệu về quy định bị hại trong Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong nội dung trình bày có giới thiệu về khái niệm của bị hại, quyền và nghĩa vụ của họ và các trường hợp người uỷ quyền của bị hại thực hiện quyền và nghĩa vụ hộ họ. Nếu trong quá trình nghiên cứu, quý bạn đọc còn có vấn đề cần được trả lời hay có quan tâm đến các dịch vụ tư vấn của LVN Group gửi tới, vui lòng truy cập địa chỉ trang web sau đây: https://lvngroup.vn/ để được tư vấn trả lời câu hỏi một cách chi tiết.