Quy định về căn cứ đình chỉ điều tra [Chi tiết 2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Quy định về căn cứ đình chỉ điều tra [Chi tiết 2023]

Quy định về căn cứ đình chỉ điều tra [Chi tiết 2023]

Quy định về căn cứ đình chỉ điều tra [Chi tiết 2023]

1. Khi nào thì đình chỉ điều tra vụ án

Căn cứ theo khoản 1 điều 230 bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định :

Điều 230. Đình chỉ điều tra

  1. Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự;
b) Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.

2. Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và những vấn đề khác có liên quan.
Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can.

  1. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định đình chỉ điều tra kèm theo hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra phục hồi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố theo thời hạn, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật này.

2. Căn cứ đình chỉ điều tra

Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra trong các trường hợp sau đây:

  1. Không có sự việc phạm tội;
  2. Hành vi không cấu thành tội phạm;
  3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
  4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
  5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
  6. Tội phạm đã được đại xá;
  7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
  8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người uỷ quyền của bị hại không yêu cầu khởi tố;
  9. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người uỷ quyền của bị hại đã có đơn yêu cầu khởi tố nhưng sau đó lại rút yêu cầu khởi tố, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án;
  10.    10.Người có ý định phạm tội nhưng đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội;
  11. 11. Khi có căn cứ miễn trách nhiệm hình sự theo Điều 29 BLHS 2015;
  12. Theo khoản 2 Điều 91, một số trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên;
  13. Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.

3. Đình chỉ điều tra theo hướng dẫn của BLTTHS năm 2015

Đình chỉ điều tra là một trong hai cách thức kết thúc hoạt động điều tra khi có những lý do và căn cứ theo hướng dẫn của pháp luật.

Bộ luật Tố tụng hình sự quy định các trường hợp Cơ quan Điều tra quyết định đình chỉ điều tra tại Khoản 1 Điều 230, cụ thể như sau:

“1. Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự;
b) Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm”.
Theo quy định trên, trong quá trình điều tra vụ án Cơ quan Điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp sau:

Thứ nhất, là trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì khi người đã có yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố và việc rút yêu cầu này hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, cưỡng bức.

Thứ hai, Trường hợp quy định tại Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự căn cứ kết quả quá trình điều tra xác định được vụ việc thuộc trường hợp không được khởi tố vụ án hình sự.

Thứ ba, Trường hợp quy định tại Điều 19 hoặc Điều 29 hoặc Khoản 2 Điều 91 Bộ luật Hình sự ( những trường hợp người phạm tội thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự).

Thứ tư, Đã hết thời hạn điều tra nhưng đơn vị điều tra không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.

Những quy định về đình chỉ điều tra trong giai đoạn điều tra quy định tại Điềm a Khoản 1 Điều 230 cũng tương tự quy định về đình chỉ vụ án trong giai đoạn truy tố quy định tại Khoản 1 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Các quy định tại Khoản 1 Điều 230 phù hợp đối với trường hợp đình chỉ điều tra đối với bị can; tương tự như vậy trong giai đoạn truy tố thì vụ án nào cũng có bị can nên các quy định tại Điều 248 là phù hợp. Nhưng trong giai đoạn điều tra có một số vụ án chưa xác định được bị can nên các quy định như tại Khoản 1 Điều 230 là chưa phù hợp. Bởi đối với vụ án không có bị can thì Cơ quan Điều tra chỉ ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án mà không có quyết định đình chỉ điều tra bị can.

Hiện nay ở rất nhiều địa phương cũng đang có những vụ án tương tự, không chỉ là những vụ án vi phạm về pháo mà còn có các vụ án về xâm phạm sở hữu, xâm phạm sức khỏe, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự xã hội v.v.. mà pháp luật hình sự đã có sự thay đổi theo hướng tăng lên về mặt cấu thành tội phạm hoặc một số hành vi trước đây bị coi là tội phạm nhưng nay không bị coi là tội phạm nữa. Việc Cơ quan Điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra là đúng quy định của pháp luật, nhưng căn cứ để áp dụng cho quyết định đình chỉ điều tra theo Khoản 1 Điều 230 thì không có; như phần nêu ở trên Khoản 1 Điều 230 không quy định trường hợp đình chỉ điều tra vụ án do có sự thay đổi của chính sách pháp luật.

4. Những quan hệ được khôi phục khi có quyết định đình chỉ điều tra

Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, trả lại tài liệu, đồ vật đã tạm giữ (nếu có), việc xử lý vật chứng và những vấn đề khác có liên quan.

Quyết định đình chỉ điều tra sẽ kết thúc việc giải quyết vụ án (trừ trường hợp quyết định này sau đó bị hủy bỏ bởi Viện kiểm sát). Do đó, các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cứ trú, các biện pháp cưỡng chế cũng cần phải chấm dứt (bị hủy bỏ) kịp thời nhằm khôi phục lại quyền, lợi ích hợp pháp của bị can.

Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể đình chỉ điều tra đối với từng bị can.

Ví dụ: A, B là bị can trong vụ án trộm cắp tài sàn. Khi đang tiến hành điều tra, A chết. Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra đối với A. Việc điều tra vẫn tiếp tục tiến hành đối với B.

5. Bình luận về trường hợp nào đơn vị điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra

Thứ nhất: Đình chỉ điều tra là một trong hai cách thức kết thúc hoạt động điều tra, mà nội dung của nó là dựa trên những lý do và căn cứ nhất định chấm dứt mọi hoạt động nhằm phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá những thông tin dùng làm chứng cứ để giải quyết vụ án hình sự.

Đình chỉ điều tra được áp dụng khi quá trình điều tra vụ án mà mặc dầu chưa đi đến chứng minh một cách có chắc chắn rằng vụ việc xảy ra không có đủ những dấu hiệu của một tội phạm xảy ra nhưng có căn cứ pháp lý cho thấy rằng không thê truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện những hành vi liên quan đến vụ việc đó.

Thứ hai: Khác với tạm đình chỉ điều tra, việc dừng các hoạt động điểu tra ở đây không có ý nghĩa tạm thời mà là kết thúc hoạt động điều tra.

– Đình chỉ điều tra là kết cục của một quá trình hoạt động điều tra, khi xuất hiện lý do khách quan theo hướng dẫn của pháp luật không thể xử lý hình sự đối với người thực hiện hành vi (khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố) hoặc do khả năng chủ quan của đơn vị điều tra, bằng các hoạt động điều tra không thể chứng minh đuợc hành vi phạm tội khi thời hạn điều tra đã hết và theo hướng dẫn của pháp luật phải ngừng các hoạt động đó.

– Quy định về đình chỉ điều tra có ý nghĩa xã hội sâu sắc ở chỗ thiết lập sự công bằng cần thiết giữa lợi ích công và lợi ích riêng của cá nhân con người (người bị hại, người bị khởi tố); là xác lập một trong những giới hạn cần thiết của quá trình điều tra (về mặt thời gian). Đình chỉ điều tra còn là một giải pháp có ý nghĩa chủ động trong việc đề phòng những vi phạm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dàn. Bằng việc kịp thời’ chấm dứt quá trình phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá những thông tin, tài liệu liên quan đến một vụ việc xảy ra đã được khởi tố về hình sự, khi không có căn cứ xác đáng kết luận về vụ việc đó trong thời hạn luật định hoặc khi việc điều tra tiếp theo có thể gây tiếp tổn hại cho người bị hại, việc đình chỉ điều tra có giá trị củng cô’ và xác lập công lý.

– Quy định về đình chỉ điều tra còn nhằm khắc phục những sai lầm có thể xảy ra trong quá trình nhận thức đánh giá những tình tiết khách quan về vụ việc xảy ra mang dấu hiệu vụ án hình sự…

Thứ ba: Đình chỉ điều tra phải tuân theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Điều luật quy định về các trường hợp đình chỉ điều tra theo những lý do nhất định, những điều kiện để đình chỉ điều tra và trình tự, thủ tục thực hiện việc đình chỉ điều tra.

– Theo quy định tại Điều luật, thì chỉ được đình chỉ điều tra khi có một trong những lý do đê đình chỉ điều tra sau đây:

+ Thứ nhất, người bị hại rút yêu cầu khởi tố đối với những vụ án chỉ khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Theo quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự (Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại), đối với những vụ án chí khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì vụ án phải được đình chỉ khi người bị hại rút yêu cầu khởi tố;

+ Thứ hai, có căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự. Khi trong quá trình điều tra, đơn vị điều tra phát hiện và xác định: có căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự theo Điều 157 của Bộ luật tố tụng hình sự;

+ Thứ ba, khi đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm. Hết thời hạn điều tra được hiểu là hết thời hạn đã gia hạn lần cuối cùng theo luật định.

Thứ tư: Điều luật quy định khi đình chỉ điều tra, đơn vị điều tra phải làm bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra.

– Vì đình chỉ điều tra là một cách thức kết thúc điều tra nên phải có bản kết luận điều tra. Bản kết luận điều tra phải tuân thủ những quy định tại khoản 1, khoản 2 của Điều 232 Bộ luật tố tụng hình sự. Mặt khác, theo hướng dẫn tại Điều 234, Bản kết luận điều tra phải nêu rõ quá trình điều tra, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra.

– Quá trình điều tra được diễn đạt theo trình tự thời gian và các biện pháp tiến hành điều tra cũng như những kết quả mà đơn vị điều tra thu được. Đổng thời với việc diễn đạt lý do đình chỉ điều tra như đã nói trên, đơn vị điều tra phải phân tích chỉ rõ căn cứ cụ thể để đơn vị điều tra quyết định đình chỉ.

– Căn cứ đình chỉ trong mỗi một trường hợp nói trên là khác nhau. Trong trường hợp thứ nhất, với lý do người bị hại rút yêu cầu khởi tố thì trong Bản kết luận điều tra phải ghi rõ căn cứ khoản 2 Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự và chỉ rõ căn cứ vào điều luật nào của Bộ luật hình sự quy định về tội đã phạm và tính chất của hành vi của người bị khởi tố; sự phù hợp của hành vi bị khởi tố với quy định của điều luật, chỉ rõ yêu cầu không khởi tố của người bị hại được phản ánh bằng cách thức nào. Bản kết luận phải viện dẫn những văn bản, những quy định cũng như những dẫn liệu về sự phù hợp của các tình tiết khách quan của vụ việc với các quy định buộc phải đình chỉ điều tra.

– Trong trường hợp thứ hai, trong Bản kết luận điều tra phải chỉ rõ căn cứ nào không được khởi tố vụ án hình sự tại khoản nào của Điều 157 của Bộ luật tố tụng hình sự.

– Trong trường hợp thứ ba, lý do hết thời hạn điều tra phải được chứng minh bằng các căn cứ được ghi trong các điều khoản quy định về thời hạn điều tra (Điều 172, Bộ luật tố tụng hình sự ), ghi rõ thời hạn cho phép đối với việc điều tra vụ việc cụ thể đang được tiến hành, thời gian bắt đầu tiến hành điều tra và khẳng định thời hạn điều tra đã hết. Đồng thời, phải chỉ rõ việc chưa chứng minh được tội phạm.

– Cùng với Bản kết luận điều tra, đơn vị điều tra ra Quyết định đình chỉ điều tra.

– Trong Quyết định đình chỉ điều tra phải ghi rõ căn cứ huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn (nếu đã áp dụng), ghi rõ việc trả lại đồ vật, tài liệu đã tạm giữ (nếu có) và những vấn đề khác có liên quan.

– Điều luật quy định, nếu trong một vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả các bị can, thì có thể đình chỉ điểu tra đối với từng bị can. Trong trường hợp đó, nội dung Quyết định đình chỉ điều tra cũng sẽ phải phản ánh những nội dung nêu trên.

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com