Vấn đề đưa và nhận hối lộ hiện nay không hiếm gặp và cũng đã được quy định rất rõ ràng trong Bộ luật Hình sự hiện hành. Tội nhận hối lộ được Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định với nhiều điểm mới, khoa học và chặt chẽ. Trong nội dung trình bày này, chuyên gia phân tích, yếu tố chủ thể phạm vi Điều 354 Bộ luật Hình sự hiện hành.
Sau đây, xin mời Quý bạn đọc cùng theo dõi nội dung trình bày Quy định về chủ thể của tội nhận hối lộ – Cập nhật năm 2023để cùng trả lời các câu hỏi.
Xem thêm: Các yếu tố cấu thành tội nhận hối lộ theo hướng dẫn của BLHS 2015
1. Quy định về chủ thể của tội nhận hối lộ
Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm là các dấu hiệu cần thiết nhất để xác định hành vi phạm tội, là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội nhận hối lộ với các tội phạm khác do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện.
Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội nhận hối lộ cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự theo hướng dẫn tại các điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội nhận hối lộ, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này:
+ Phải là người có chức vụ, quyền hạn nhưng lại không giống như người có chức vụ, quyền hạn trong tội tham ô tài sản. Nếu người có chức vụ, quyền hạn phạm tội tham ô tài sản phải là người có liên quan đến việc quản lý tài sản thì người có chức vụ, quyền hạn phạm tội nhận hối lộ không nhất thiết phải là người có trách nhiệm quản lý tài sản. Phạm vi chức vụ, quyền hạn của người phạm tội nhận hối lộ rộng hơn.
Người có chức vu, quyền hạn là người đã được nêu ở phần khái niệm các tội phạm về chức vụ này. Tuy nhiên, đối với chủ thể của tội nhận hối lộ có tổ chức, ngoài những người có chức vụ, quyền hạn còn có thể có những người không có chức vụ, quyền hạn là chủ thể của tội phạm nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức, còn người thực hành nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn.
Người có chức vụ, quyền hạn phải là người có trách nhiệm trong việc giải quyết những yêu cầu của người đưa hối lộ. Những yêu cầu đó có thể là yêu cầu về lợi ích vật chất hoặc phi vật chất của người đưa hối lộ. Tuy nhiên, người có chức vụ, quyền hạn khi giải quyết những yêu cầu của người đưa hối lộ phải là việc thực hiện công vụ. Nếu có chức vụ, quyền hạn khi giải quyết yêu cầu cho người khác để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất của họ, nhưng không phải là thực hiện công vụ thì không phải là nhận hối lộ. Vì vậy, việc xác định tư cách chủ thể của tội nhận hối lộ là rất cần thiết.
Người có trách nhiệm đối với việc giải quyết yêu cầu của người đưa hối lộ là người được giao nhiệm vụ và do nhiệm vụ đó mà họ có quyền đối với việc giải quyết yêu cầu của người khác. Những người này, muốn xác định chỉ cần căn cứ vào Điều 4 Luật cán bộ, công chức.
Việc xác định trách nhiệm của một người đối với việc giải quyết yêu cầu của người đưa hối lộ là rất cần thiết, vì trên thực tiễn không ít người đưa hối lộ cứ tưởng rằng người mà mình đưa hối lộ là người có trách nhiệm giải quyết được yêu cầu của mình.
Chủ thể của tội nhận hối lộ là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ có người có chức vụ, quyền hạn mới nhận hối lộ được. Tuy nhiên khẳng định này chỉ đúng với trường hợp vụ án nhận hối lộ không có đồng phạm, còn trong vụ án có đồng phạm thì có thể có cả những người không có chức vụ, quyền hạn nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức còn người thực hành trong vụ án có đồng phạm thì nhất thiết phải là người có chức vụ quyền hạn.
Tương tự như đối với tội tham ô tài sản, nếu người phạm tội chỉ nhận hối lộ dưới hai triệu đồng thì phải là người trước đó đã bị xử lý kỷ luật về hành vi nhận hối lộ bằng một trong những cách thức kỷ luật theo hướng dẫn của Nhà nước hoặc theo hướng dẫn trong Điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn được xóa kỷ luật, nay lại có hành vi nhận hối lộ. Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý kỷ luật nhưng về hành vi khác không phải là hành vi nhận hối lộ thì cũng chưa cấu thành tội phạm này.
Xem thêm: Bình luận Tội nhận hối lộ theo BLHS năm 2015
Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội nhận hối lộ trong những trường hợp sau:
Người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 279 vì các trường hợp nhận hỗi lộ quy định tại các khoản trên là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên đối với những người này họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án nhận hối lộ với vai trò giúp sức, vì những người này chưa thể trở thành cán bộ, công chức.
2. Giải đáp có liên quan
– Tội phạm là gì?
Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự 2015, tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo hướng dẫn của Bộ luật Hình sự phải bị xử lý hình sự.
– Mặt khách quan là gì?
Mặt khách quan của tội phạm là mặt thể hiện bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Những trạng thái, hành vi biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm chính là mang lại hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Xem thêm: Chứng cứ buộc tội nhận hối lộ là gì?
– Hối lộ là gì?
Hối lộ về bản chất là sự mua bán quyền lực, một hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức, nhất là về phía người nhận hối lộ. Người nhận hối lộ dứt khoát phải là người nắm giữ quyền lực và đã “bán” quyền lực đó để thu lợi bất chính cho mình.
Trên đây là nội dung về Quy định về chủ thể của tội nhận hối lộ – Cập nhật năm 2023 mà LVN Group gửi tới đến bạn đọc. Trong quá trình nghiên cứu về vấn đề này, nếu có câu hỏi, vui lòng truy cập website https://lvngroup.vn/ để được tư vấn, hỗ trợ.