Quy định về hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ điều tra 2023 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Quy định về hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ điều tra 2023

Quy định về hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ điều tra 2023

Tạm đình chỉ điều tra là việc tạm ngừng tiến hành các hoạt động điều tra đối với vụ án hoặc đối với bị can vì những lý do nhất định. Tạm đình chỉ điều tra được quy định tại điều 160 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Vậy tạm đình chỉ điều tra là gì? Trường hợp nào được áp dụng tạm đình chỉ điều tra? cũng như hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ điều tra. Hãy cùng theo dõi nội dung trình bày sau đây:

Hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ điều tra

1. Tạm đình chỉ điều tra là gì?

Tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự là việc đơn vị điều tra cho tạm dừng quá trình điều tra vụ án hoặc bị can vì một rơi vào một trong các căn cứ được quy định tại Khoản 1, Điều 229, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Theo quy định tại Điều 229 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định như sau:

–  Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:

a) Khi chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án. Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra;

b) Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn điều tra;

c) Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp không có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.

– Trường hợp vụ án có nhiều bị can mà lý do tạm đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả bị can thì có thể tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can.

– Trong thời hạn 02 ngày kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bào chữa hoặc người uỷ quyền của bị can; thông báo cho bị hại, đương sự và người bảo vệ quyền lợi của họ”.

2. Điều kiện cho từng trường hợp tạm đình chỉ điều tra

Thứ nhất, đối với trường hợp tạm đình chỉ điều tra khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác thì luật quy định phải có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y. Trong trường hợp này, việc tạm đình chỉ điều tra có thể được thực hiện ở bất cứ thời gian nào.

Theo quy định của Điều luật thì việc tạm đình chỉ là quyền của đơn vị có thẩm quyền tạm đình chỉ. Các đơn vị đó có thể không tạm đình chỉ nếu xét thấy, tình tiết bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác không cản trở việc làm sáng tỏ chân lý về vụ án. Tuy nhiên, nếu quyết định tạm đình chỉ vì lý do bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác thì phải trưng cầu giám định và phải có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y.

Thứ hai, trường hợp tạm đình chỉ điều tra do hết thời hạn điều tra, thường có thể có hai khả năng xảy ra, hoặc là chưa xác định được bị can, hoặc là không biết bị can đang ở đâu.

Điều đó có nghĩa là, để quyết định đình chỉ điều tra trong trường hợp này, đơn vị ra quyết định phải căn cứ vào khoản 1, Điều 172 của Bộ luật tố tụng hình sự và tính chất của vụ án, tội phạm đã được khởi tố và điều tra, để xác định còn thời hạn điều tra được không. Trong trường hợp này, Điều luật không chỉ xác lập quyền tạm đình chỉ điều tra cho đơn vị tiến hành điều tra hoặc kiểm sát điều tra mà còn xác định đây là nghĩa vụ của các đơn vị điều tra phải tạm đình chỉ điều tra khi thời hạn điều tra đã hết. Vì thế Điều luật chỉ cho phép tạm đình chỉ điều tra khi chưa xác định được bị can mà đã hết thời hạn điều tra. Còn đối với trường hợp đã xác định được bị can, nhưng hết thời hạn điều tra mà không biết bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra. Trong trường hợp đó, để bảo đảm tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự, đơn vị điều tra phải xin gia hạn điều tra.

Thứ ba, hết hạn điều tra ở đây được hiểu là đã hết kể cả thời hạn đã xin gia hạn điều tra theo những quy định tại khoản 2, Điều 172 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì kết quả giám định có ý nghĩa cần thiết đối với nhiều vấn đề khác của vụ án, đồng thời có thể là chứng cứ cần thiết làm căn cứ để phục hồi điều tra, theo như quy định tại Điều 235, Bộ luật tố tụng hình sự, nên nhà làm luật đã tách một khoản riêng quy định cho trường hợp hết thời hạn điều tra nhưng việc trưng cầu giám định không có kết quả. Trong trường hợp đó, mặc dầu các hoạt động điều tra được tạm đình chỉ, nhưng riêng việc giám định vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.

Điều luật quy định khả năng tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can trong trường hợp vụ án có nhiều bị can. Theo Điều luật thì chỉ có thể tạm đình chỉ điều tra đối với bị can nào đó trong một vụ án có nhiều bị can, nếu việc tạm đình chỉ đó không liên quan đến tất cả các bị can. Tuy nhiên, cần hiểu chính xác hơn là việc tạm đình chỉ đó không liên quan đến bất cứ một bị can nào khác.

3. Ý nghĩa của việc tạm đình chỉ điều tra

Ý nghĩa của việc quy định về tạm đình chỉ điều tra là nhằm hạn chế tối đa khả năng kéo dài thời hạn điều tra khi không cần thiết, đồng thời khắc phục việc lạm dụng thời hạn điều tra.

Quy định về tạm đình chỉ điều tra còn nhằm khắc phục sự kiện quá tải, tồn động án ở khâu điều tra khi có những yếu tố bất khả kháng, để giảm bớt nhu cầu sử dụng lực lượng điều tra và giảm tối đa những chi phí vật chất không cần thiết cho hoạt động tố tụng này.

Mặt khác, tạm đình chỉ điều tra còn là một giải pháp có ý nghĩa chủ động trong việc đề phòng những oan sai có thể xảy ra trong thực tiễn điều tra.

Việc tạm đình chỉ điều tra sẽ giúp đơn vị điều tra giảm bớt khả năng phải xin gia hạn điều tra, khi không cần thiết phải kéo dài thời hạn chờ đợi để tiến hành các hoạt động điều tra cần thiết.

– Điều luật quy định những trường hợp tạm đình chỉ điều tra, những điều kiện để tạm đình chỉ điều tra và trình tự, thủ tục thực hiện việc tạm đình chỉ điều tra. Căn cứ vào những quy định trong Điều luật thì tạm đình chỉ điều tra được thực hiện khi có một trong hai trường hợp sau đây:

+ Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác;

+ Trong trường hợp chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu mà đã hết thời hạn điều tra.

4. Áp dụng thời hiệu đối với vụ án đang tạm đình chỉ làm căn cứ đình chỉ điều tra

Theo quy định tại khoản 1 Điều 230 BLTTHS, việc đình chỉ điều tra được thực hiện trong các trường hợp sau đây:

– Có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 155 và Điều 157 của Bộ luật này hoặc có căn cứ quy định tại Điều 16 hoặc Điều 29 hoặc khoản 2 Điều 91 của Bộ luật hình sự;

– Khi đã hết thời hạn điều tra vụ án hình sự mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm.

Trong khi đó, theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 229 BLTTHS, việc tạm đình chỉ điều tra được Cơ quan điều tra quyết định khi thuộc một trong các trường hợp:

– Khi chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án. Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra;

– Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn điều tra;

– Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp không có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.

Đồng thời theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 27 BLHS năm 2015, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính như sau: 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng; 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng

Khoản 3 Điều 27 BLHS năm 2015 quy định trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 27, đối với trường hợp người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.

Vì vậy, căn cứ vào các quy định nêu trên, có thể xác định việc áp dụng thời hiệu đối với vụ án bị tạm đình chỉ điều tra được thực hiện theo hướng dẫn tại khoản 2, khoản 3 Điều 27 BLHS năm 2015. Đối với trường hợp tạm đình chỉ điều tra nhưng đã hết thời hiệu truy cứu TNHS thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra.

Việc phục hồi điều tra theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 235 BLTTHS chỉ được thực hiện khi có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, khi đã hết thời hiệu truy cứu TNHS, Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 230 và khoản 5 Điều 157 BLTTHS.

5. Hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ điều tra 

Hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ điều tra là:

Tạm đình chỉ điều tra sẽ làm tạm thời ngừng, ngừng quá trình điều tra vụ án hình sự lại, cho đến khi có lý do để hủy bỏ quyết định tạm đình chỉ điều tra và đơn vị điều tra ra quyết định phục hồi điều tra.

Vì vậy, nội dung bên trên chúng ta đã nắm rõ hơn về các quy định tạm đình chỉ điều tra cũng như nêu ra được hậu quả pháp lý của tạm đình chỉ điều tra. Mong rằng nội dung trình bày trên sẽ hữu ích với bạn. Mọi thông tin hay quý khách hàng có nhu cầu sử dụng dịch vụ tại LVN Group, vui lòng liên hệ trực tiếp với chúng tôi để được hỗ trợ kịp thời. Công ty Luật LVN Group – Đồng hành pháp lý cùng bạn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com