Quy định về Quyền con người theo Hiến pháp 1959 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Quy định về Quyền con người theo Hiến pháp 1959

Quy định về Quyền con người theo Hiến pháp 1959

Bài viết dưới đây đề cập đến quy định về quyền con người theo Hiến pháp 1959. Hãy cùng LVN Group theo dõi nội dung trình bày dưới đây !.

Quy định về Quyền con người theo Hiến pháp 1959

Quyền con người

Quyền con người (Human rights, Droits de LHomme) là toàn bộ các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người do tính chất nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người chứ không phải được tạo ra bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm do đấng tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất kì chính phủ nào cũng phải bảo vệ.

Quyền con người không những được nhìn nhận trên quan điểm các quyền tự nhiên (natural rights) mà nó còn được nhìn nhận trên quan điểm các quyền pháp lý (legal right). Theo đó “quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cả nhân và các nhóm chổng lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.

 

Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân trong Hiến pháp năm 1959

Hiến pháp năm 1959 bao gồm 112 điều, trong đó, các nội dung về quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định tại Chương III với tên gọi “Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, gồm 21 điều. Nghiên cứu nội dung này của Hiến pháp năm 1959, có thể thấy rằng:

Thứ nhất, tên gọi và thứ tự của chương quyền công dân trong Hiến pháp năm 1959 có sự thay đổi. Khác với Hiến pháp năm 1946, nội dung về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 1959 xếp vị trí thứ 3, sau hai chương về “Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa” và “Chế độ kinh tế và xã hội”. Mặt khác, trong tên gọi của chương, cụm từ “quyền lợi” đứng trước “nghĩa vụ” và có thêm từ “cơ bản”. Việc thay đổi này thể hiện sự đề cao việc thụ hưởng các quyền của nhân dân Việt Nam cũng như nhấn mạnh những quy định trong chương này chỉ nhằm tạo cơ sở chứ không giới hạn phạm vi hưởng quyền của nhân dân. Hay nói cách khác, quyền và nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp năm 1959 chỉ là mang tính nền tảng và người dân hoàn toàn có thể được hưởng thêm các quyền khác dù không được ghi nhận trong Hiến pháp này.

Thứ hai, Hiến pháp năm 1959 đã mở rộng phạm vi hưởng quyền của nhân dân thêm nhiều lĩnh vực. Căn cứ, Hiến pháp năm 1959 đã bổ sung thêm một số quyền công dân trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội trên cơ sở kế thừa những quy định đã có từ Hiến pháp năm 1946. Các quyền mới gồm: Quyền được pháp luật bảo hộ hôn nhân và gia đình (Điều 24); quyền được bảo hộ bà mẹ và trẻ em (Điều 24); quyền biểu tình (Điều 25); quyền khiếu nại, tố cáo (Điều 29); quyền công tác (Điều 30); quyền nghỉ ngơi (Điều 31); quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật (Điều 32); quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật (Điều 34). Tuy nhiên, dù phạm vi quyền của công dân được mở rộng hơn so với Hiến pháp năm 1946, đa số các quyền dân sự của người dân không được quy định trực tiếp trong Chương III Hiến pháp năm 1959 mà nằm rải rác trong Chương II “Chế độ kinh tế và xã hội”. Mặt khác, quyền sở hữu tài sản – một quyền rất cần thiết của công dân lại được quy định gián tiếp trong chương về chế độ kinh tế và xã hội với những hạn chế nhất định.

Bên cạnh quy định quyền, Hiến pháp năm 1959 cũng quy định cụ thể những nghĩa vụ cơ bản của công dân như nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội; nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản công cộng; nghĩa vụ đóng thuế; nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc… Các quy định này của Hiến pháp năm 1959 đã phần nào thể hiện sự đề cao các giá trị chung của cộng đồng bên cạnh các quyền cá nhân.

Thứ ba, tuy mở rộng cả về phạm vi hưởng quyền và nội dung các quyền công dân nhưng Hiến pháp năm 1959 lại bỏ quy định liên quan đến thủ tục phúc quyết trong Hiến pháp năm 1946. Vì vậy, theo Hiến pháp năm 1959, nhân dân không còn được tham gia vào quá trình sửa đổi Hiến pháp hay quyết định các vấn đề cần thiết của đất nước bằng thủ tục phúc quyết, do vậy, đã hạn chế phần nào khả năng tham gia vào các hoạt động chính trị của người dân. Một vấn đề khác đó là, tương tự như Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 cũng không có sự phân biệt hai khái niệm “quyền con người” và “quyền công dân” khi chỉ đề cập đến đối tượng là công dân Việt Nam trong Chương III Hiến pháp năm 1959.

yền và nội dung quyền nhưng Hiến pháp năm 1992 vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Trước hết, việc ghi nhận chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đứng thứ 05 chưa thực sự tương xứng với tầm cần thiết của chương này. Về nội dung, mặc dù Hiến pháp năm 1992 đã ghi nhận thêm nhiều quyền mới nhưng nhìn chung nội dung của chương này trong Hiến pháp vẫn chú trọng vào nhóm các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội là chủ yếu. Nhóm các quyền về dân sự và chính trị chưa được quan tâm đúng mức trong khi đây mới là nội dung chính trong Hiến pháp các nước khi quy định về quyền con người, quyền công dân. Một điểm hạn chế nữa của Hiến pháp năm 1992 là mặc dù có nhắc đến cụm từ “quyền con người” tại Điều 50 nhưng cũng giống như các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 1992 vẫn không có sự phân biệt giữa hai nhóm quyền công dân và quyền con người và hầu hết các quy định trong Chương V Hiến pháp năm 1992 vẫn có đối tượng áp dụng chỉ bao gồm công dân Việt Nam.

 

Trên đây LVN Group đã đề cập đến quy định về Quyền con người theo Hiến pháp 1959. Trong quá trình nghiên cứu nếu có vấn đề câu hỏi xin vui lòng liên hệ website của Công ty Luật LVN Group để được trả lời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com