Quy định về thẩm quyền ký quyết định trưng cầu giám định trong TTDS - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Quy định về thẩm quyền ký quyết định trưng cầu giám định trong TTDS

Quy định về thẩm quyền ký quyết định trưng cầu giám định trong TTDS

Trưng cầu giám định là một biện pháp thu thập chứng cứ. Do đó, muôn thực hiện được nghĩa vụ chứng minh về các vấn đề có liên quan đến chuyên môn sâu nhằm đưa ra được các chứng cứ thuyết phục Hội đồng xét xử, thì đương sự thường yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định. Việc đương sự yêu cầu Tòa án trưng cầu giâm định phải thể hiện bằng văn bản (có thể bằng đơn, hoặc trong biên bản ghi lời khai, v.v..); đồng thời, người yêu cầu giám định phải nộp tạm ứng chi phí giám định thì Tòa mổi chấp nhận việc trưng cầu giám định. Mời bạn cân nhắc: Quy định về thẩm quyền ký quyết định trưng cầu giám định trong TTDS.

Quy định về thẩm quyền ký quyết định trưng cầu giám định trong TTDS

1/ Thẩm quyền, thủ tục trưng cầu giám định tư pháp

Trưng cầu giám định là một biện pháp thu thập chứng cứ. Do đó, muôn thực hiện được nghĩa vụ chứng minh về các vấn đề có liên quan đến chuyên môn sâu nhằm đưa ra được các chứng cứ thuyết phục Hội đồng xét xử, thì đương sự thường yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định. Việc đương sự yêu cầu Tòa án trưng cầu giâm định phải thể hiện bằng văn bản (có thể bằng đơn, hoặc trong biên bản ghi lời khai, v.v..); đồng thời, người yêu cầu giám định phải nộp tạm ứng chi phí giám định thì Tòa mổi chấp nhận việc trưng cầu giám định.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 97, Điều 102 Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành thì Thẩm phán là người có thẩm quyền quyết định việc trưng cầu giám định. Quyết định trưng cầu giám định phải được thể hiện bằng văn bản và có các nội dung sau đây:

– Ngày, tháng, năm ra quyết định và Tòa án ra quyết định.

– Tên, địa chỉ tổ chức giám định nếu Tòa án trưng cầu tổ chức giám định, hoặc họ, tên địa chỉ của Giám định viên được trưng cầu giám định nếu Tòa án trưng cầu người đó tiến hành giám định.

– Nguồn gốc và đặc điểm của đối tượng cần giám dịnh.

– Tên các tài liệu có liên quan hoặc mẫu so sánh kèm theo những vấn đề cần giám định.

– Các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.

– Thòi hạn trả kết luận giám định.

Bộ luật tố tụng dân sự quy định rất chặt chẽ về thẩm quyển, thủ tục trưng cầu giám định, nên việc trưng cầu giám định nhất thiết phải thể hiện dưới dạng quyết định, nếu cơ qụan trưng cầu giám định không thực hiện đúng quy định của Bộ luật iố tụng dân sự thì Giám định viên, đơn vị giám định có quyền trả lại.

Về nội dung, đơn vị trưng cầu giám định chỉ đặt ra những vấn đề thuộc về chuyên môn trong quyết định trưng cầu giám định để Giám định viên trả lời. Nhưng trên thực tiễn cả trong tố tụng hình sự và trong tố tụng dân sự, không ít trường hợp đơn vị tiến hành tố tụng hoặc người tiến hành tố tụng đã yêu cầu Giám định viên trả lời những vấn đề không thuộc thẩm quyển của họ, ví dụ: … “bị can Lê Văn T có phải chịu trách nhiệm hình sự được không’? Nếu có phải chịu trách nhiệm hình sự thì ở mức độ nào?”, hoặc …“bị cáo có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đâm chết bà X không? Nếu phải chịu trách nhiệm hình sự thì đến mức độ nào?”. Trong quyết định trưng cầu giám định về vụ án dân sự, cũng có câu hỏi… “anh A có phải là cha châu Q không?” hay “ chữ ký trong chúc thư có phải là chữ ký của cụ Nguyễn Văn H không?”. Để xác định mức độ tâm thần của anh Hoàng Văn H, từ đó xem xẻt hủy hợp đồng dân sự mà anh H ký với chị p, trong quyết định trưng cầu giảm định Thẩm phán đã yêu cầu Giám định viên trả lời cả về: “hợp đồng anh Hoàng Văn H ký kết với chị Đinh Thị p có đến mức vô hiệu không?”, V.V..

Các nội dung nêu trên đã vượt ra ngoài phạm vi chuyên môn của người giám định, không thuộc trách nhiệm của tổ chức giám định và Giám định viện.

Việc khai thác kết quả giám định trong tố tụng hình sự cũng như trong tố tụng dân sự cơ bản giống nhau nhưng về thẩm quyển, thủ tục trưng cầu giám định trong tố tụng dân sự cũng có điểm khác với tố tụng hình sự.

Trong tố tụng hình sự việc trưng cầu giám định là do đơn vị tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chủ động trưng cầu (kể cả trưòng hợp trưng cầu giám định bổ sung hay giám định lại), chứ không cần chờ có yêu cầu của bị can, bị cáo, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; và có rất nhiều chủ thể có quyền ra quyết định trưng cầu giám định như Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điểu tra viên, V.V.. sở dĩ trong tố tụng hình sự, đơn vị tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải chủ động trưng cầu giám định là do nghĩa vụ chứng minh một người có tội được không có tội là thuộc về đơn vị tiến hành tố tụng. Dù bị can, bị cáo không chứng minh được sự vô tội của mình cũng không được lấy đó là căn cứ kết tội họ; còn trong tố tụng dân sự nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự nên Tòa án thường chỉ trưng cầu giám định khi có sự yêu cầu của đương sự.

Giám định trong tố tụng hình sự và giám định trong tố tụng dân sự đều có điểm chung là nếu thấy kết luận giám định chưa trọn vẹn, chưa rõ ràng, hay khi phát sinh những vấn đề mối liên quan đến những tình tiết của vụ án hay việc dân sự đã kết luận trước đó, hoặc có vi phạm pháp luật thì đều có thể yêu cầu giám định bổ sung hay giám định lại. Giám định lại thường được tiến hành khi có nghi ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn giữa các bản kết luận giám định.

Khoản 1 Điều 211 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định “… việc giám định lại phải do người giám định khác tiến hành”.

Xuất phát từ thực tiễn và để bảo đảm tính khách quan, độ tin cậy cao hơn nên Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định tại khoản 5 Điều 102 như sau: “Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo hướng dẫn của Luật giám định tư pháp.”

Đốỉ với trường hợp đã có quyết định trưng cầu giám định nhưng giám định viên chưa trả lời hết các yêu cầu nêu trong quyết định trưng cầu giám định thì đơn vị đã trưng cầu giám định yêu cầu Giám định viên trả lời cho trọn vẹn bằng văn bản, chứ không phát sinh một quyết định trưng cầu giám định bổ sung.

Trong pháp luật tố tụng hình sự (Điều 210, 211 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) cũng cho phép bị can và những ngưòi tham gia tố tụng có yêu cầu thì đơn vị trưng cầu giám định phải thông báo cho họ vể nội dung kết luận giám định, và họ được quyền trình bày các ý kiến của mình về kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại. Trường hợp không chấp nhận yêu cầu của họ cũng phải thông báo và nêu rõ lý do; còn trong tố tụng dân sự đương sự được quyền sao, chép, phôtô tài liệu, trong đó có kết luận giám định; đương sự dùng nó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa hoặc bác bỏ yêu cầu của phía đương sự bên kia.

2/ Quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giám định tư pháp

Điều 22 Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020 quy định

“1. Người yêu cầu giám định có quyền gửi văn bản yêu cầu đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Trường hợp đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu cầu thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu trưng cầu giám định, phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản. Hết thời hạn nói trên hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định.

2. Người yêu cầu giám định có quyền:

a) Yêu cầu cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp trả kết luận giám định đúng thời hạn đã thỏa thuận và theo nội dung đã yêu cầu;

b) Yêu cầu cá nhân, tổ chức đã thực hiện giám định tư pháp giải thích kết luận giám định;

c) Đề nghị Tòa án triệu tập người giám định tư pháp đã thực hiện giám định tham gia phiên tòa để giải thích, trình bày về kết luận giám định;

d) Yêu cầu đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định lại; yêu cầu giám định bổ sung theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.

3. Người yêu cầu giám định tư pháp có nghĩa vụ:

a) Cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến đối tượng giám định theo yêu cầu của người giám định tư pháp và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin, tài liệu do mình gửi tới;

b) Nộp tạm ứng chi phí giám định tư pháp khi yêu cầu giám định; thanh toán kịp thời, trọn vẹn chi phí giám định cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định khi nhận kết luận giám định.

4. Người yêu cầu giám định chỉ được thực hiện quyền tự yêu cầu giám định trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.”

3/ Quyền, nghĩa vụ của người giám định tư pháp khi thực hiện giám định tư pháp

Điều 23 Luật Giám định tư pháp sửa đổi 2020 quy định

“1. Người giám định tư pháp có quyền:

a) Lựa chọn phương pháp cần thiết, phù hợp để tiến hành giám định theo nội dung yêu cầu giám định;

b) Sử dụng kết quả thực nghiệm, xét nghiệm bổ sung hoặc kết luận chuyên môn do cá nhân, tổ chức khác thực hiện nhằm phục vụ cho việc giám định;

c) Độc lập đưa ra kết luận giám định.

d) Đề nghị người trưng cầu giám định hoặc đơn vị có thẩm quyền thực hiện biện pháp bảo vệ theo hướng dẫn của pháp luật khi có dấu hiệu bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của bản thân hoặc người thân thích do việc thực hiện giám định tư pháp, tham gia vụ án, vụ việc với tư cách là người giám định tư pháp;

đ) Từ chối thực hiện giám định tư pháp trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 11 của Luật này;

e) Được bố trí vị trí phù hợp khi tham gia tố tụng tại phiên tòa.

2. Người giám định tư pháp có nghĩa vụ:

a) Tuân thủ các nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp;

b) Thực hiện giám định theo đúng nội dung yêu cầu giám định;

c) Thực hiện và trả kết luận giám định đúng thời hạn yêu cầu; trong trường hợp cần thiết phải có thêm thời gian để thực hiện giám định thì phải thông báo kịp thời cho người trưng cầu, yêu cầu giám định biết;

d) Lập hồ sơ giám định;

đ) Bảo quản mẫu vật giám định, tài liệu liên quan đến vụ việc giám định;

e) Không được thông báo kết quả giám định cho người khác, trừ trường hợp được người đã trưng cầu, yêu cầu giám định đồng ý bằng văn bản;

g) Chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận giám định do mình đưa ra. Trường hợp cố ý đưa ra kết luận giám định sai sự thật gây tổn hại cho cá nhân, tổ chức thì còn phải bồi thường, bồi hoàn theo hướng dẫn của pháp luật.

3. Ngoài các quyền, nghĩa vụ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người giám định tư pháp có quyền, nghĩa vụ khác theo hướng dẫn của pháp luật về tố tụng.”

Trên đây là một số thông tin về Quy định về thẩm quyền ký quyết định trưng cầu giám định trong TTDS – Công ty Luật LVN Group, mời bạn đọc thêm cân nhắc và nếu có thêm những câu hỏi về nội dung trình bày này hay những vấn đề pháp lý khác về dịch vụ luật sư, tư vấn nhà đất, thành lập doanh nghiệp… hãy liên hệ với LVN Group theo thông tin bên dưới để nhận được sự hỗ trợ nhanh chóng và hiệu quả từ đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý có nhiều năm kinh nghiệm từ chúng tôi. LVN Group đồng hành pháp lý cùng bạn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com