Quy Định Về Vị Trí Pháp Lý Của Cơ Quan Xét Xử [Chi Tiết 2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Quy Định Về Vị Trí Pháp Lý Của Cơ Quan Xét Xử [Chi Tiết 2023]

Quy Định Về Vị Trí Pháp Lý Của Cơ Quan Xét Xử [Chi Tiết 2023]

Vị trí pháp lý của đơn vị xét xử được quy định thế nào? Như thế nào là vị trí pháp lý của đơn vị xét xử? Bài viết sau đây sẽ trả lời những câu hỏi của các bạn về vị trí pháp lý của đơn vị xét xử.

Vị trí pháp lý của đơn vị xét xử

1. Địa vị pháp lý là gì?

Địa vị pháp lý là Vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định pháp luật. Thông qua địa vị pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem xét vị trí và tầm cần thiết của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật.

2. Địa vị pháp lý của đơn vị quản lý hành chính nhà nước

Các đơn vị quản lý hành chính Nhà nước là các đơn vị chủ thể chủ yếu của quan hệ pháp luật hành chính. Là một bộ phận hợp thành của bộ máy Nhà nước, đơn vị quản lý Nhà nước có những đặc điểm chung của đơn vị hành chính Nhà nước đó là:

a. Là một tổ chức (tập hợp những con người)

b. Có tính độc lập tương đối về tổ chức – cơ cấu

c. Có thẩm quyền do pháp luật quy định.

Ngoài các đặc điểm chung của đơn vị Nhà nước, đơn vị quản lý Nhà nước có đặc điểm riêng, quyết định bởi chính bản chất của hoạt động chấp hành và điều hành. Các đặc điểm riêng cơ bản của địa vị pháp lý của đơn vị quản lý Nhà nước là:

1. Nhìn tổng thể, bộ máy hành chính Nhà nước là bộ máy chấp hành của các đơn vị quyền lực Nhà nước. Các đơn vị đầu não của bộ máy hành chính do các đơn vị quyền lực Nhà nước thành lập (Chính phủ, Bộ và các đơn vị, đơn vị ngang Bộ và các đơn vị khác thuộc Chính phủ, UBND các cấp). Do đó, chúng trực thuộc, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các đơn vị quyền lực Nhà nước tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước đơn vị đó. Có những đơn vị quản lý Nhà nước không do các đơn vị quyền lực Nhà nước trực tiếp lập ra mà do các đơn vị quản lý cấp trên thành lập, nhưng về nguyên tắc cũng chịu sự giám sát, lãnh đạo của các đơn vị quyền lực tương ứng.

2. Các đơn vị quản lý Nhà nước chuyên thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành tức là hoạt động mang tính dưới luật – hoạt động tiến hành trên cơ sở và để thi hành luật. Đó là cách thức chủ yếu để đưa các đạo luật và các văn bản pháp luật khác … của các đơn vị quyền lực Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống.

3. Thẩm quyền của các đơn vị quản lý Nhà nước chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp hành và điều hành, chủ yếu được quy định trong các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy Nhà nước hoặc các điều lệ, quy chế…

Những quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ dân sự mà đơn vị quản lý Nhà nước có thể tham gia tương tự như tất cả các chủ thể khác của phá luật dân sự không phải là yếu tố của thẩm quyền của các đơn vị Nhà nước. Trong phạm vi thẩm quyền của mình, của các đơn vị quản lý Nhà nước có trách nhiệm hoạt động thường xuyên hàng ngày một cách chủ động và sáng tạo để đáp ứng nhu cầu diễn biến nhanh chóng, phức tạp và đa dạng của hoạt động quản lý.

4. Tất cả các đơn vị quản lý Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau (quan hệ trực thuộc trên – dưới, trực thuộc ngang, quan hệ chéo) tạo thành một hệ thống thống nhất có trung tâm chỉ đạo là Chính phủ đảm bảo thực hiện nhiệm vụ chấp hành và điều hành một cách mau lẹ, nhất cửa hàng và hiệu quả.

5. Hoạt động chấp hành và điều hành của bộ máy quản lý hoàn toàn khác với hoạt động kiểm sát và hoạt động xét xử của toà án. Tuy nhiên, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau.

3. Vị trí, vai trò của các đơn vị tư pháp trong hệ thống các đơn vị nhà nước

Trong chế độ quân chủ chuyên chế quyền lực Nhà nước nằm trọn trong tay nhà vua.

Hoàng đế là người duy nhất có quyền đặt ra pháp luật, là người tổ chức thực hiện pháp luật, đổng thời cũng là người có quyền tối hậu trong việc xét xử những người vi phạm pháp luật. Vì quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều nằm trong tay Hoàng đế nên khi xuất hiện một ông vua độc tài và bạo ngược thì đó là một tai họa khủng khiếp cho nhân dân. Khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời, sự phát triển của công nghiệp và đô thị, nền kinh tế hàng hóa thị trường và chế độ lao động làm thuê đòi hỏi con người phải có những tự do nhất định. Sự cạnh tranh làm mạnh của nền kinh tế thị trường đòi hỏi con người phải có quyền bình đẳng. Sự đòi hỏi đó của xã hội làm xuất hiện nhu cầu phải phá bỏ chế độ quân chủ chuyên chế.

Trong bối cảnh đó của lịch sử học thuyết về phân chia quyền lực của John Locke và Charle Montesquieu đã ra đời. Trong tác phẩm “tinh thần pháp luật” (L’Esprit des lois) Montesquieu đã trình bày những tư tưởng chủ yếu của mình về vấn đề phân chia quyền lực trong việc tổ chức bộ máy Nhà nước. Theo Montesquieu nếu quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp tập trung vào tay một người hay tập trung trong tay một đơn vị thì sẽ tạo ra sự áp bức, sự độc đoán và tự do sẽ biến mất. Vậy nên phải tổ chức bộ máy Nhà nước sao cho ba thứ quyền lực đó độc lập với nhau, khống chế và đối trọng lẫn nhau. Theo ông thì quyền lập pháp trao cho Nghị viện, quyền hành pháp trao cho Chính phủ và quyền Tư pháp trao cho Tòa án. Với nguyên tắc này hệ thống đơn vị tòa án trở thành một trong ba hệ thống đơn vị độc lập của bộ máy Nhà nước chuyên nắm quyền xét xử những vi phạm pháp luật và áp dụng những hình phạt đối với người vi phạm. Việc áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực trong việc tổ chức và thực hiện chức năng của bq,ựiáy Nhà nước được thể hiện rất rõ trong Hiến pháp của Pháp, Hoa Kỳ, Italia… Ở Pháp một người là thẩm phán thì không thể là Nghị sĩ cũng như đã là Nghị sĩ thì không thể đồng thời là thành viên của Chính phủ. Nếu một thẩm phán ứng cử vào Nghị viện và trúng cử thì thẩm phán đó phải từ bỏ chức vụ thẩm phán.

Cùng với sự ra đời của Nhà nước tư sản và sự thiết lập hệ thống đơn vị xét xử độc lập với đơn vị lập pháp và hành pháp một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng được hình thành. Đó là các nguyên tắc cơ bản sau đây:

  • Khi xét xử thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật;
  • Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật;
  • Không ai có thể bị truy tố ngoài những trường hợp mà luật trực tiếp quy định. Nguyên tắc này được thể hiện bằng công thức: “Không có tội nếu như không được quy định trong luật”;
  • Không ai có thể bị trừng phạt bởi những hình phạt không được quy định trực tiếp trong luật. Nguyên tắc này được thể hiện theo công thức: “Không có hình phạt nếu hình phạt đó không được pháp luật quy định”;
  • Không có tội nếu không đủ chứng cứ buộc tội.

4. Kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự

Để đảm bảo hoạt động tố tụng diễn ra đúng pháp luật, đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiểm soát giữa các đơn vị trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Nếu phát hiện hành vi trái pháp luật của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì đơn vị nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị với đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết theo hướng dẫn của Bộ luật này. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo hướng dẫn của pháp luật.

Bài viết trên là những thông tin chi tiết và cụ thể về vị trí pháp lý của đơn vị xét xử. Hãy liên hệ Công ty Luật LVN Group để được tư vấn và hỗ trợ nếu bạn có những câu hỏi liên quan đến vị trí pháp lý của đơn vị xét xử. Chúng tôi luôn đồng hành pháp lý cùng bạn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com