Quy định về vô ý phạm tội theo BLHS 2015

Hiện nay, tội phạm ngày càng hành động với nhiều cách thức tinh vi, thủ đoạn khó lường gây nguy hiểm cho người dân và toàn xã hội. Tội phạm sẽ bị xử lý theo nhiều hình phạt khác nhau theo hướng dẫn pháp luật về hình sự. Vậy, vô ý phạm tội là gì? Hãy cùng theo dõi nội dung trình bày bên dưới của LVN Group để được trả lời câu hỏi và biết thêm thông tin chi tiết về vô ý phạm tội là gì.

1.Vô ý phạm tội là gì?

Khái niệm vô ý phạm tội là gì được phân tích như sau:

Cơ sở pháp lý: Lỗi vô ý phạm tội được quy định cụ thể tại Điều 11 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như sau:

“Điều 11. Vô ý phạm tội

Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:

  1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được;
  2. Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.”

2.Phân tích lỗi vô ý phạm tội.

Việc phân tích lỗi vô ý phạm tội là điều cần thiết nhất khi xem xét vô ý phạm tội là gì.

Với Điều 11 có 2 khoản và cũng tương ứng với hai lỗi vô ý: Vô ý vì quá tự tin và lỗi vô ý vì cẩu thả.

Thứ nhất, theo khoản 1 Điều luật này lỗi vô ý có thể phân tích theo hai tiêu chí sau:

– Về lý trí người phạm tội: Người phạm tội nhận thức được tính gây tổn hại cho xã hội của hành vi của mình và thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội… ”. Đồng thời người phạm tội lại cho rằng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Rõ ràng rằng sự thấy trước hậu quả tổn hại ở đây thực chất chỉ là sự cân nhắc của người phạm tội đến khả năng hậu quả xảy ra hoặc không xảy ra và kết quả người phạm tội đã loại trừ khả năng hậu quả tổn hại xảy ra và luôn tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra.

Đối với người phạm tội với lỗi vô ý vì quá tự tin, khả năng hậu quả tổn hại xảy ra hoặc không xảy ra đều là khả năng trên thực tiễn. Tuy nhiên người phạm tội đã tin vào khả năng rằng hậu quả tổn hại không xảy ra sau khi người phạm tội đã cân nhắc, tính toán. Với sự cân nhắc, tính toán người phạm tội có thể dựa trên các căn cứ nhất định như tin tưởng vào sự khéo léo, mức đọ tin cậy vào bản thân cao, sự hiểu biết, kinh nghiệm nghề nghiệp, trình độ kĩ thuật của mình hoặc tin vào những tình tiết khách quan bên ngoài khác.

Ví dụ chứng minh: Người lái xe phóng nhanh vượt ẩu (vượt quá tốc độ cho phép theo hướng dẫn của pháp luật) luôn tin rằng tay lái của mình chắc chắn, không bao giờ gây ra tai nạn hay nguy hiểm cho người khác. Với ví dụ này mặc dù sự tin tưởng này của người phạm tội tuy có căn cứ nhưng căn cứ đó không bao giờ là có điều chắc chắn. Bởi vì người phạm tội đã không đánh giá đúng tình hình thực tiễn, xem xem tình hình thực tiễn thế nào. Sự tin tưởng của họ là sự tin tưởng quá mức so với thực tiễn đang xảy ra.

Khi một người phạm tội với lỗi vô ý vì quá tự tin do không thận trọng khi đánh giá, lựa chọn xử sự điều đó chắc chắn sẽ gây ra hậu quả tổn hại cho xã hội.
– Về ý chí người phạm tội: Người phạm tội không mong muốn hành vi của mình gây ra hậu quả tổn hại cho người khác cũng như gây tổn hại cho xã hội nói chung. Tuy nhiên sự không mong muốn này có điểm khác so với sự không mong muốn ở trường hợp có lỗi cố ý gián tiếp được quy định tại khoản 2 Điều 10 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bởi vì nếu ở trường hợp có lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội không mong muốn nhưng đã chấp nhận khả năng hậu quả tổn hại xảy ra khi lựa chọn và thực hiện hành vi phạm tội thì ở trường hợp có lỗi vô ý vì quá tự tin, sự không mong muốn hậu quả tổn hại của người phạm tội gắn liền với việc người đó đã loại trừ khả năng hậu quả tổn hại xảy ra. Người phạm tội với lỗi vô ý vì quá tự tin đã cân nhắc, tính toán và cho rằng hậu quả tổn hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

Thứ hai,lỗi vô ý do cẩu thả theo khoản 2 Điều 11 Bộ luật này ta có thể thấy gồm hai dấu hiệu

– Dấu hiệu thứ nhất: Người phạm tội không thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội (hậu quả tổn hại) mà hành vi của mình đã gây ra.
Dấu hiệu thứ nhất là dấu hiệu cho phép phân biệt trường hợp người phạm tội có lỗi vô ý vì cẩu thả với các trường hợp có lỗi khác.
Ở các trường hợp có lỗi vô ý vì quá tự tin vừa phân tích ở trên, người phạm tội thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả tổn hại, tuy mức độ thấy trước nó là khác nhau. Thì trong trường hợp có lỗi vô ý vì cẩu thả, người phạm tội không thấy trước hậu quả tổn hại do hành vi của mình gây ra.

Việc người phạm tội không thấy trước hậu quả tổn hại của hành vi của mình có thể xảy ra có thể theo những khả năng sau:
+ Người phạm tội không nhận thức được mặt thực tiễn do hành vi của mình gây ra và như vậy cũng không nhận thức được khả năng gây hậu quả tổn hại do hành vi của mình.

Ví dụ chứng minh: Tội vô ý làm lộ bí mật công tác quân sự theo khoản 1 Điều 406 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017).
+ Người phạm tội tuy nhận thức được mặt thực tể của hành vi của mình nhưng lại hoàn toàn không nhận thức được khả năng gây hậu quả tổn hại của hành vi của mình (hoàn toàn không nghĩ đến khả năng hậu quả xảy ra).

Ví dụ: Hút thuốc lá xong không nhớ gạt tàn mà để tàn thuốc lá gần chỗ bơm xăng cá nhân dẫn đến nổ.
– Về dấu hiệu thứ hai: Người phạm tội phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả tổn hại. Đây là dấu hiệu cho phép phân biệt trường hợp có lỗi vô ý vì cẩu thả của người phạm tội với trường hợp không có lỗi.
Người phạm tội trong trường hợp có lỗi vô ý vì cẩu thả có nghĩa vụ phải thấy trước và có đủ điều kiện để có thể thấy trước hậu quả tổn hại của hành vi của mình. Điều này xuất phát từ trách nhiệm cụ thể của cá nhân và hoàn cảnh. Người phạm tội không thấy trước hậu quả tổn hại của hành vi của mình chỉ vì sự cẩu thả, thiếu sự thận trọng cần thiết của chính họ. Lỗi của người phạm tội là ở chỗ đã cẩu thả, đã thiếu thận trọng khi xử sự.

Xem thêm về khái niệm phạm tội và tội phạm nghiêm trọng.

3.Các câu hỏi thường gặp.

3.1.Nêu ví dụ phân tích trường hợp nào là vô ý hay cố ý phạm tội?

Tìm hiểu thêm về ví dụ tại nội dung trình bày có liên quan của LVN Group về vô ý hay cố ý phạm tội.

3.2.Tội vô ý làm chết người bị phạt bao nhiêu năm tù?

Theo quy định tại Điêu 128 BLHS 2015, người nào vô ý làm chết người, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Phạm tội làm chết 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm

Những vấn đề có liên quan đến vô ý phạm tội là gì cũng như các thông tin cần thiết khác đã được trình bày cụ thể và chi tiết trong nội dung trình bày. Khi nắm được vô ý phạm tội là gì sẽ giúp chủ thể xác định vấn đề này chính xác và đơn giản hơn.

Nếu quý khách hàng vẫn còn câu hỏi liên quan đến vô ý phạm tội là gì cũng như các vấn đề có liên quan, hãy liên hệ ngay với LVN Group.

Công ty luật LVN Group chuyên gửi tới các dịch vụ tư vấn hỗ trợ pháp lý đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong thời gian sớm nhất có thể.

Gọi trực tiếp cho chúng tôi theo hotline 1900.0191 để được tư vấn chi tiết.

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com