Chiều ngày 17/11/2020, tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIV, Quốc hội đã tiến hành biểu quyết thông qua Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020, với 443/466 đại biểu tán thành, chiếm 91,91%, gồm 16 chương, 171 Điều. Bài viết dưới đây của LVN Group về So sánh Luật Bảo vệ Môi trường 2005 và 2014 – Công ty Luật LVN Group hi vọng đem đến nhiều thông tin chi tiết và cụ thể đến Quý bạn đọc.
So sánh Luật Bảo vệ Môi trường 2005 và 2014 – Công ty Luật LVN Group
I. Những điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường 2014 so với 2005:
1. Bổ sung 1 Điều về nội dung Bảo vệ môi trường trong hoạt động thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản.
2. Bổ sung riêng chương IV về “Ứng phó với biến đổi khí hậu” trong đó quy định phải lồng ghép nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, quy định về quản lý phát thải nhà kính, quản lý các chất làm suy giảm tầng ô zôn, phát triển năng lượng tái tạo, phát triển năng lượng tái tạo thu hồi năng lượng từ chất thải,…
3. Bổ sung riêng một mục về bảo vệ môi trường và hải đảo, trong đó quy định kiểm soát, xử lý ô nhiễm môi trường biển và hải đảo; phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường trên biển và hải đảo.
4. Bổ sung mục về bảo vệ môi trường đất, trong đó quy định về quản lý chất lượng môi trường đất, kiểm soát ô nhiễm môi trường đất.
5. Bổ sung mục về bảo vệ môi trường không khí, trong đó quy định về quản lý chất lượng môi trường không khí xung quanh, kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí.
6. Bổ sung trách nhiệm của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong BVMT (Điều 68 chương VII)
7. Quy định về xây dựng và thực hiện phương án bảo vệ môi trường.
8. Quy định Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có phát sinh lượng chất thải lớn, nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường phải có bộ phận chuyên môn hoặc nhân sự phụ trách về bảo vệ môi trường; phải được xác nhận hệ thống quản lý môi trường theo hướng dẫn của Chính phủ.
9. Đối với quy định về BVMT làng nghề bổ sung quy định về trách nhiệm của UBND cấp xã, huyện, tỉnh có làng nghề (Điều 70).
10. Đối với quy định về BVMT trong nhập khẩu phế liệu bổ sung trách nhiệm của Tổ chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu: Chỉ được nhập khẩu phế liệu làm nguyên liệu sản xuất; phải tái xuất phế liệu không đáp ứng quy chuẩn môi trường, trường hợp không tái xuất được thì phải xử lý theo hướng dẫn của pháp luật về quản lý chất thải; thực hiện ký quỹ bảo đảm phế liệu nhập khẩu theo hướng dẫn của Chính phủ.
11. Bổ sung nội dung về BVMT đối với Cơ sở nghiên cứu, Phòng thử nghiệm trong hoạt động chuyên môn phục vụ việc quản lý và BVMT;
12. Quy định về quản lý chất thải:
+ Bổ sung trách nhiệm của người tiêu dùng phải chuyển sản phẩm thải bỏ đến nơi quy định.
+ Giao cho Ủy ban nhân dân các cấp, đơn vị quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi để cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tổ chức việc thu gom sản phẩm thải bỏ.
+ Bổ sung trách nhiệm của chủ đầu tư khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao trong quản lý chất thải.
13. Bổ sung quy định đối với hệ thống xử lý nước thải: cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có quy mô xả thải lớn và có nguy cơ tác hại đến môi trường phải tổ chức quan trắc môi trường nước thải tự động và chuyển số liệu cho đơn vị quản lý nhà nước có thẩm quyền theo hướng dẫn của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 còn Quy định về ban hành, triển khai thực hiện bộ Chỉ thị môi trường địa phương (Điều 132) giao Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng, ban hành, triển khai thực hiện bộ chỉ thị môi trường địa phương trên cơ sở bộ chỉ thị môi trường quốc gia. Quy định rõ trách nhiệm của các cấp trong việc báo cáo công tác bảo vệ môi trường hàng năm (Điều 134) các quy định về trách nhiệm của các đơn vị quản lý nhà nước các cấp, các ngành, mặt trận Tổ quốc, bổ sung trách nhiệm và quyền của tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp; quyền và nghĩa vụ của cộng đồng dân cư. Quy định rõ trách nhiệm về Bồi thường tổn hại về môi trường, bổ sung Nguyên tắc xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, trong đó quy định rõ nguyên tắc xác định trách nhiệm của cá nhân gây ô nhiễm môi trường (Điều 164). Đồng thời, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 không quy định về xử lý Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường như Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 mà quy định về xử lý Cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
II. Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ môi trường ở nước ta
Thực tiễn sản xuất và đời sống xã hội đòi hỏi phải có các chuẩn mực trong mọi hành vi ứng xử, giao tiếp cho mọi thành viên trong xã hội tuân theo. Những văn bản quy định những nguyên tắc như vậy người ta gọi là văn bản quy phạm pháp luật, được nhà nước đảm bảo cho nó được thực hiện. Các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường cũng chính là những quy tắc xử sự chung nằm trong khuôn khổ pháp luật.
Là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật bảo vệ Việt nam, pháp luật bảo vệ môi trường cũng có các vai trò của phap luật nói chung và cũng có những vai trò riêng của nó. Đó là pháp trong luật quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường là cơ sở pháp lí cho việc quy định cơ cấu tổ chức của các đơn vị quản lí nà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường, là cơ sở pháp lí cho hoạt động thanh tra kiểm tra, giám sát, xử lí vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, và là cơ sở pháp lí cho công tác bảo vệ môi trường. Nó được thể hiện như sau:
Thứ nhất là pháp luật trong quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường là cơ sở pháp lí quy định cơ cấu tổ chức của các đơn vị quản lí nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Có thể thấy pháp luật bảo vệ môi trường có một vai trò cần thiết đối với lĩnh vực môi trường.Hệ thống đơn vị quản lí môi trường nằm trong hệ thống đơn vị nhà nước nói chung và được tổ chức thống nhất từ trung ương xuống địa phương.
Thứ hai là, pháp luật trong quản lí nhà nước đối với lĩnh vực môi trường là cơ sở pháp lí quy định hoạt động của các đơn vị quản lí nhà nước trong lĩnh vức bảo vệ môi trường.
Thứ ba là pháp luật trong quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường là cơ sở pháp lí cho việc thanh tra, kiểm tra, giám sát và sử lí các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực môi trường.Việc thanh tra, giám sát được thực hiện thường xuyên , định kì hàng năm hoặc kiểm tra đột xuất dựa vào các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành, còn xử lí vi phạm được áp dụng cho mọi cá nhân tổ chức trong và ngoài nước có những hành vi vô ý hay cố tình vi phạm các quy định nhà nước trong lĩnh vực môi trường.
Thứ tư, pháp luật trong quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường là cơ sở pháp lí cho xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường. Dựa vào các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành các đơn vị thực hiện theo đó để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Trên đây là bài viết mà chúng tôi gửi tới đến Quý bạn đọc về So sánh Luật Bảo vệ Môi trường 2005 và 2014 – Công ty Luật LVN Group. Trong quá trình nghiên cứu và nghiên cứu, nếu như quý bạn đọc còn câu hỏi hay quan tâm đến So sánh Luật Bảo vệ Môi trường 2005 và 2014 – Công ty Luật LVN Group, quý bạn đọc vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn.