Quy phạm pháp luật hành chính và quy phạm pháp luật tố tụng hành chính mặc dù đều là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đều điều chỉnh những các quan hệ xã hội theo ý chí của Nhà nước nhưng vẫn có nhiều điểm tồn tại khác nhau. Bài viết dưới đây sẽ gửi tới cho quý bạn đọc nội dung so sánh giữa luật hành chính và luật tố tụng hành chính.
1. Khái niệm luật hành chính và luật tố tụng hành chính
1.1 Khái niệm luật hành chính
Luật hành chính là hệ thống các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh những quan hệ xã hội mang tính chất chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động của các đơn vị nhà nước hoặc tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
1.2 Khải niệm luật tố tụng hành chính
Luật tố tụng hành chính là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước ta, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tố tụng hành chính phát sinh giữa Tòa án với những người tham gia tố tụng, những người tiến hành tố tụng trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án hành chính nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan và tổ chức.
2. Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính và luật tố tụng hành chính
2.1 Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính
Luật hành chính khi điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính chất chấp hành và điều hành sử dụng phương pháp mệnh lệnh phục tùng. Bởi vì bản thân hoạt động quản lý nhà nước mang bản chất là tính quyền uy do các bên tham gia quan hệ có địa vị không bình đẳng với nhau về ý chí: một bên ra lệnh, bên kia phải phục tùng.
Tuy vậy trong những trường hợp đặc biệt luật hành chính cũng sử dụng phương pháp thỏa thuận, như trong trường hợp ban hành các quyết định liên tịch, ký kết và thực hiện các hợp đồng hành chính. Quan hệ giữa các bên tham gia ký kết là quan hệ bình đẳng, trong quá trình thỏa thuận với nhau để đi đến ký kết không ai có quyền ra lệnh, ép buộc ai.
2.2 Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng hành chính
Luật tố tụng hành chính có hai phương phá điều chỉnh:
– Phương pháp quyền uy, phụ thuộc thể hiện trong mối quan hệ giữa Tòa án với các chủ thể khác;
– Phương pháp bình đẳng thể hiện trong mối quan hệ giữa các đương sự trong cùng một vụ án. Các đương sựhoàn toàn bình đẳng khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, mà Tòa án nhân dân là chủ thể bảo đảm thực hiện sự bình đẳng đó.
3. Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính và luật tố tụng hành chính
3.1 Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính
Đối tượng điều chỉnh của luật hành chính Việt Nam là những quan hệ xã hội chủ yếu và cơ bản hình thành trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, hay nói khác hơn đối tượng điều chỉnh của luật hành chính là những quan hệ xã hội hầu hết phát sinh trong hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước. Nhìn chung, đối tượng điều chỉnh của luật hành chính bao gồm những vấn đề sau:
– Những quan hệ xã hội mang tính chất chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động của các đơn vị quản lý nhà nước.
– Những quan hệ xã hội mang tính chất chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động xây dựng, tổ chức công tác nội bộ của các đơn vị nhà nước khác (như Tòa án, Viện kiểm sát).
– Những quan hệ xã hội mang tính chất chấp hành và điều hành phát sinh trong hoạt động của các đơn vị nhà nước khác hoặc các tổ chức xã hội khi được nhà nước trao quyền thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
3.2 Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng hành chính
Trong lĩnh vực tố tụng hành chính, khi Tòa án giải quyết các vụ án hành chính thì phát sinh các quan hệ giữa Tòa án với Viện kiểm sát, các đương sự và với những người tham gia tố tụng khác. Các quan hệ này xuất hiện từ khi có cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức (tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân) gọi chung là người khởi kiện nộp đơn kiện đến Tòa án có thẩm quyền và được Tòa án thụ lý giải quyết, và quan hệ này tồn tại cho đến khi việc giải quyết vụán kết thúc.
Như vậy, đối tượng điều chỉnh của Luật tố tụng hành chính là các quan hệ xã hội phát sinh giữa Tòa án nhân dân với Viện kiểm sát nhân dân, các cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức trong quá trình Tòa án giải quyết các vụ án hành chính để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức này.
4. Quan hệ pháp luật hành chính và luật tố tụng hành chính
4.1 Quan hệ pháp luật hành chính
Quan hệ pháp luật hành chính là những quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động chấp hành – điều hành được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật hành chính giữa các bên chủ thể tham gia mang quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo hướng dẫn của pháp luật hành chính.
4.2 Quan hệ pháp luật tố tụng hành chính
Pháp luật tố tụng hành chính nước ta quy định đương sự có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần, nếu không có ai khởi kiện.
Quan hệ pháp luật tố tụng hành chính là quan hệ xã hội phát sinh giữa Tòa án, Viện kiểm sát với các đương sự và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án hành chính và được các quy phạm pháp luật tố tụng hành chính điều chỉnh.
5. Những câu hỏi thường gặp.
5.1. Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính bao gồm đối tượng nào?
Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính bao gồm các đối tượng sau đây:
– Quyết định hành chính.
– Quyết định hành chính bị kiện (bổ sung mới so với LTTHC 2010).
– Hành vi hành chính.
– Hành vi hành chính bị kiện (bổ sung mới so với LTTHC 2010).
– Quyết định kỷ luật buộc thôi việc.
+ Quyết định hành chính là văn bản do đơn vị hành chính nhà nước, đơn vị, tổ chức, được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban hành hoặc người có thẩm quyền trong đơn vị, tổ chức đó ban hành quyết định về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể.
Văn bản có thể bằng Quyết định, Công văn, Thông báo, Báo cáo, Kết luận….mà trong đó có quyết định một vấn đề cụ thể đối với một người hoặc nhiều người.
+ Quyết định hành chính bị kiện là quyết định quy định tại Quyết định hành chính mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của đơn vị, tổ chức, cá nhân hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đơn vị, tổ chức, cá nhân.
– Hành vi hành chính là hành vi (việc làm) của đơn vị hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong đơn vị hành chính nhà nước hoặc đơn vị, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo hướng dẫn của pháp luật.
Đây là việc làm của đơn vị, cá nhân trong đơn vị, đơn vị được giao nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước nhưng thực hiện trái quy định hoặc không thực hiện gây khó khăn, tổn hại cho tổ chức, cá nhân.
+ Hành vi hành chính bị kiện là hành vi quy định tại Hành vi hành chính mà hành vi đó làm ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của đơn vị, tổ chức, cá nhân.
+ Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu đơn vị, tổ chức để áp dụng cách thức kỷ luật buộc thôi việc đối công chưc thuộc quyền quản lý của mình.
Vì vậy, các quyết định kỷ luật như: khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, bãi nhiệm không là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
5.2. Trường hợp nào mà xét xử không có Hội thẩm nhân dân tham gia?
Việc xét xử vụ án hành chính có Hội thẩm nhân dân tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn thì chỉ có một Thẩm phán thực hiện không có Hội thẩm nhân dân tham gia.
Thủ tục rút gọn là vụ án có tình tiết đơn giản, tài liệu, chứng cứ trọn vẹn, rõ ràng và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chúng cứ; các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng nhằm giải quyết nhanh hạn chế tốn thời gian, vật chất cho các bên; thời hạn để Thẩm phán được phân công ra quyết định đưa vụ án ra giải quyết theo thủ tục rút gọn là trong vòng 30 ngày kể từ ngày thụ lý vụ án và mở phiên tòa xét xử trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định.
5.3. Nguyên tắc đối thoại trong vụ án hành chính là gì?
Đối với vụ án dân sự, lao động, kinh tế… trong quá trình chuẩn bị xét xử thì có hòa giải, còn trong vụ án hành chính thì không có hòa giải mà tổ chức đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án. Nguyên tắc đối thoại là bắt buộc. Trường hợp đối thoại thành thì Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, đình chỉ việc giải quyết vụ án. Quyết định này có hiệu lực thi hành ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
5.4. Người uỷ quyền theo ủy quyền của Luật TTHC năm 2015 có gì mới?
Trường hợp người bị kiện là đơn vị, tổ chức hoặc người đứng đầu đơn vị, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình uỷ quyền. Người được ủy quyền không được ủy quyền lại cho người thứ ba.
Theo văn bản của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trả lời một số vướng mắc, đối với những trường hợp người bị kiện là UBND hoặc Chủ tịch UBND thì Chủ tịch UBND chỉ được ủy quyền cho Phó chủ tịch UBND uỷ quyền tham gia tố tụng. Phó chủ tịch UBND không được ủy quyền lại cho người thứ ba tham gia tố tụng.
Trên đây là nội dung về so sánh luật hành chính và luật tố tụng hành chính. Quý bạn đọc có bất kỳ thắc mắc, khó khăn có thể liên hệ với công ty Luật LVN Group để được hỗ trợ, tránh các vấn đề ảnh hưởng tới quá trình hoạt động của bạn.