So sánh Luật Hợp tác xã năm 2012 với Luật Hợp tác xã năm 2003 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - So sánh Luật Hợp tác xã năm 2012 với Luật Hợp tác xã năm 2003

So sánh Luật Hợp tác xã năm 2012 với Luật Hợp tác xã năm 2003

Luật Hợp tác xã 2012 được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2012, có hiệu lực từ ngày 01/7/2013. Theo đó Luật Hợp tác xã 2012 đã có hiệu lực thi hành thay thế Luật Hợp tác xã 2003. Vậy Luật Hợp tác 2012 đã có những thay đổi gì so với Luật Hợp tác xã 2003? Hãy cùng LVN Group so sánh Luật Hợp tác xã 2003 và 2012 trong nội dung trình bày dưới đây để biết được sự khác nhau giữa hai luật này !!

1. So sánh Luật Hợp tác xã 2003 và 2012 về khái niệm hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã (Điều 3)

 

Luật Hợp tác xã 2012 đã ghép các nội dung quy định về liên hiệp hợp tác xã vào các quy định về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tại các chương, từ Chương I đến Chương VI, của Luật Hợp tác xã 2012. 

2. So sánh Luật Hợp tác xã 2003 và 2012 về tên gọi những thành viên góp vốn

 

 

Vì vậy, Luật hợp tác xã 2012 đã thay khái niệm “xã viên” trong Luật hợp tác xã 2003 bằng khái niệm “thành viên”. Điều này thể hiện nguyên tắc Hợp tác xã, liên hiệp Hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên, hợp tác xã thành viên ở các quy định cụ thể: số lượng thành viên giới hạn tối thiểu, không quy định số lượng tối đa;  điều kiện trở thành thành viên được mở rộng hơn cho cả người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam (quy định tại Điều 13 Luật hợp tác xã 2012 ). 

Mặt khác Luật hợp tác xã 2012 còn bãi bỏ đối tượng cán bộ công chức được tham gia hợp tác xã với tư cách là thành viên.

3. So sánh Luật Hợp tác xã 2003 và 2012 về nguyên tắc tổ chức, hoạt động

Ở Luật hợp tác xã 2003 thì nguyên tắc tổ chức, hoạt động chỉ có 5 khoản, còn ở Luật hợp tác xã 2012 có 7 khoản. 

Luật Hợp tác xã 2012 bổ sung những nguyên tắc mới rất đặc thù bao gồm:

  • Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên, hợp tác xã thành viên.
  • Thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo hướng dẫn của điều lệ. Thu nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên hoặc theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm.

4. So sánh Luật Hợp tác xã 2003 và 2012 về bản chất của hợp tác xã

Luật Hợp tác xã 2003 quy định chưa rõ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải lấy lợi ích của xã viên là mục tiêu cho hoạt động và phát triển của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; chưa thể hiện thật rõ lợi ích của xã viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khi tham gia hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; vai trò người chủ của xã viên trong việc quyết định các vấn đề cơ bản của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, như: xác định mục tiêu, tổ chức hoạt động, quản lý và điều hành hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, còn mờ nhạt.

Luật Hợp tác xã 2003 cũng chưa thể hiện sự ràng buộc trách nhiệm của xã viên trong việc góp vốn và chia sẻ rủi ro; thực tiễn vốn góp của xã viên còn mang tính cách thức, khi làm ăn thua lỗ, xã viên không liên đới chịu trách nhiệm.

So với Luật Hợp tác xã 2003, Luật Hợp tác xã 2012 xác định rõ ràng hơn bản chất của Hợp tác xã; khắc phục những khó khăn, tồn tại của Luật Hợp tác xã 2003. 

Điểm mới của Hợp tác xã 2012 còn thể chế hóa rõ hơn về bản chất, tổ chức của Hợp tác xã, để làm rõ sự khác biệt so với tổ chức doanh nghiệp, ở mục tiêu thành lập, quan hệ sở hữu, quan hệ kinh tế, quan hệ quản lý, và quan hệ phân phối trong Hợp tác xã. Luật Hợp tác xã năm 2012 đã xác định rõ bản chất của hợp tác xã đó là “ hợp tác xã nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”.

Theo Luật hợp tác xã năm 2012: Mục tiêu của Hợp tác xã là mang lại lợi ích cho thành viên; “phân phối của hợp tác xã chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên; theo công sức lao động, phần còn lại chia theo vốn góp”. 

Luật hợp tác xã năm 2012 bỏ quy định “hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp” so với Luật hợp tác xã năm 2003.

5. So sánh Luật Hợp tác xã 2003 và 2012 về vấn đề cách thức góp vốn và số vốn góp

Quy định của Luật Hợp tác xã năm 2003 về việc xã viên “cùng góp vốn, góp sức” là chưa rõ ràng, có thể dẫn đến cách hiểu khác nhau:

+ Các xã viên chỉ “góp vốn” mà không “góp sức“ 

+ Hoặc ngược lại: chỉ “góp sức” mà không “góp vốn”

Với hai cách hiểu nêu trên, quy định pháp luật về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hiện hành chưa làm rõ được bản chất của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, dẫn đến cách hiểu hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là doanh nghiệp.

Luật hợp tác xã 2012 quy định mức góp vốn tối đa của thành viên khi tham gia hợp tác xã không quá 20% vốn điều lệ (theo điều 17 Luật hợp tác xã 2012).

Luật hợp tác xã năm 2003 quy định vốn góp tối đa của xã viên (thành viên) không quá 30% vốn điều lệ (theo Điều 19 Luật Hợp tác xã 2003)

Điểm khác biệt là trong Luật Hợp tác xã 2003 không xác định góp sức là bắt buộc còn trong Luật Hợp tác xã 2012, ngoài việc góp vốn thì góp sức là nghĩa vụ bắt buộc đối với thành viên trong Hợp tác xã tạo việc làm.

6. So sánh Luật Hợp tác xã 2003 và 2012 về Hội đồng quản trị, Giám đốc Hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã 

Luật hợp tác xã năm 2012 sử dụng khái niệm “Hội đồng quản trị” thay khái niệm “Ban quản trị”; “Chủ tịch hội đồng quản trị” thay khái niệm “Trưởng ban quản trị”. Hội đồng quản trị tối thiểu có 03 thành viên, tối đa có 15 thành viên. Khái niệm “Giám đốc” thay khái niệm “Chủ nhiệm”;

Luật hợp tác xã 2012 bên cạnh khái niệm “Ban kiểm soát” còn bổ sung khái niệm “Kiểm soát viên”; hợp tác xã có 30 thành viên trở lên thì bầu Ban kiểm soát; Ban kiểm soát tối đa có 07 thành viên; nếu hợp tác xã có số lượng thành viên ít (dưới 30 thành viên) thì có thể chỉ bầu 01 kiểm soát viên quy định tại điều 39 Luật hợp tác xã 2012

Khái niệm “đăng ký hợp tác xã” thay khái niệm “đăng ký kinh doanh”. Mặt khác còn có một số quy định liên quan các nội dung sửa đổi, bổ sung khác. 

Mô hình quản trị theo Luật Hợp tác xã 2012 là mô hình đơn nhất, không có sự phân biệt tùy theo trường hợp giữa quản trị và điều hành như trong Luật Hợp tác xã 2003;

Theo Luật hợp tác xã 2012 thì người uỷ quyền theo pháp luật của Hợp tác xã chỉ là chủ tịch Hội đồng quản trị; trước đây theo Luật hợp tác xã 2003 thì người uỷ quyền theo pháp luật của Hợp tác xã có thể là Chủ nhiệm hoặc trưởng ban quản trị tùy thuộc vào từng mô hình. 

Tham khảo Luật Hợp tác xã 2003

Tham khảo Luật Hợp tác xã 2012

Trên đây là phần so sánh Luật Hợp tác xã 2003 và 2012 mà LVN Group muốn gửi đến quý bạn đọc. Chúng tôi hy vọng những chia sẻ của chúng tôi sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về các quy định pháp luật về hợp xã. Nếu bạn cần được tư vấn giải quyết các vấn đề khác hoặc cần sử dụng các dịch vụ pháp lý, bạn có thể liên hệ LVN Group để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ pháp lý kịp thời, chính xác của chúng tôi.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com