Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường 2014

Tổng kết thực hiện Luật Bảo vệ môi trường 2014 thời gian qua cho thấy, các quy định của Luật cơ bản phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững nên đã phát huy được những tác động tích cực. Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ Môi trường 2014 là một trong những yêu cầu được Ủy ban Thường vụ Quốc vụ (UBTVQH) đặt ra khi thảo luận về Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, tại phiên họp chiều 21/4. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ gửi tới cho các quý bạn đọc về nội dungSửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường 2014.

Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường 2014

1. Luật Bảo vệ Môi trường 2014 nặng về thủ tục, chưa dựa vào kết quả

Báo cáo tại phiên họp của UBTVQH, Bộ trưởng Bộ TN&MT Trần Hồng Hà cho biết, Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) số 55/2014/QH13 đã đưa ra nhiều chính sách, cách tiếp cận đổi mới, từng bước đưa phương thức quản lý, giải quyết các vấn đề về môi trường, từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa, kiểm soát các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường để đóng góp cho tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững. Tuy nhiên, những vấn đề và thách thức mới phát sinh từ thực tiễn cuộc sống đặt ra yêu cầu cấp thiết phải sửa đổi Luật BVMT.

Theo đó, Luật BVMT hiện hành chưa tiếp cận và cập nhật với những thay đổi nhanh của cơ chế thị trường; một số quy định mới chỉ ở mức khung, chưa bảo đảm các yếu tố thực thi. Quản lý môi trường mới chỉ tập trung đề cao vai trò, trách nhiệm của Nhà nước, chưa làm rõ vai trò của người dân, doanh nghiệp, sự tham gia của tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và cộng đồng trong BVMT, chưa huy động hiệu quả nguồn lực của xã hội cho BVMT, trong khi nguồn lực của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu. Cách thức quản lý còn mang nặng tính mệnh lệnh hành chính, chủ yếu dựa vào quy trình, thủ tục, chưa dựa vào kết quả, mục tiêu cuối cùng.

Vấn đề BVMT không có ranh giới cụ thể nên cần phải được tiếp cận một cách tổng thể. Tuy vậy, nhiều nội dung về BVMT đang được quy định phân tán tại các luật khác nhau, chưa hướng đến mục tiêu tổng thể, chưa cửa hàng triệt chủ trương BVMT là một trong ba trụ cột của phát triển bền vững.

Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, môi trường nước ta đang diễn biến ngày càng phức tạp, chất lượng môi trường tại một số nơi đã vượt ngưỡng cho phép, không còn khả năng tiếp nhận chất thải. Đã xuất hiện những sự cố môi trường lớn, đặc biệt là sự cố môi trường do Formosa gây ra, đòi hỏi phải nhanh chóng thay đổi phương thức quản lý, kiểm soát về môi trường đối với các dự án đầu tư lớn, phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao.

Bên cạnh đó, sự bùng phát dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch COVID-19 hiện nay đang gióng lên hồi chuông cảnh báo về vấn đề BVMT.

Thẩm tra của Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường tán thành nhiều quy định của Luật BVMT sửa đổi lần này.

Sau gần 6 năm thực hiện, công tác BVMT đã đạt được một số kết quả tích cực. Nhận thức về trách nhiệm và hành động trong BVMT đã có sự chuyển biến mạnh mẽ, thu hút được sự quan tâm của toàn xã hội. Phương thức quản lý, giải quyết các vấn đề về môi trường đã từng bước có sự thay đổi từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa, kiểm soát các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, nền kinh tế nước ta có bước phát triển bền vững, thân thiện hơn với môi trường.

Bên cạnh đó Luật BVMT năm 2014 cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa theo kịp với những thách thức mới đặt ra.

Do đó, Thường trực Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường cho rằng việc sửa đổi Luật BVMT năm 2014 là cần thiết nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, phù hợp hơn với thế và lực mới cao hơn nhiều của đất nước; nhằm cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng trong quản lý tài nguyên, BVMT và ứng phó với biến đổi khí hậu.

2. Những định hướng sửa đổi

Theo Tổng cục Môi trường, để khắc phục những vướng mắc của Luật Bảo vệ môi trường 2014 và điều chỉnh các vấn đề mới phát sinh về bảo vệ môi trường cần luật hóa các yếu tố môi trường cần bảo vệ; các loại tác động môi trường; chất ô nhiễm, nguồn ô nhiễm, kiểm soát nguồn ô nhiễm; các nội dung về chất thải rắn…

Về khung chính sách môi trường, các nội dung cần sửa đổi, bổ sung gồm chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, quy chuẩn kỹ thuật, phân vùng môi trường, kiểm soát nguồn ô nhiễm, quản lý chất thải rắn, quản lý chất lượng môi trường, quản lý cảnh quan thiên nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên, cải thiện chất lượng môi trường, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu, các công cụ hành chính-kỹ thuật, các công cụ kinh tế, nguồn lực, trách nhiệm bảo vệ môi trường.

Cần phân luồng các hoạt động phát triển theo mức độ phát sinh các chất ô nhiễm, chất thải rắn, chiếm dụng, xâm hại cảnh quan thiên nhiên, hệ sinh thái tự nhiên để có các biện pháp quản lý, kiểm soát, giảm thiểu phù hợp, hiệu quả. Phân vùng môi trường theo các vùng nhạy cảm cao, nhạy cảm và ít nhạy cảm để định hướng các hoạt động phát triển phù hợp với chức năng, mức độ nhạy cảm, khả năng chịu tải của môi trường. Phân định chất thải để có biện pháp quản lý phù hợp, hiệu quả. Phân loại chất thải để thúc đẩy tái sử dụng, tái chế, thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn, quản lý chất thải phù hợp.

Thiết lập các tiêu chí về môi trường làm căn cứ để kiểm soát hoạt động phát triển đảm bảo phù hợp với phân vùng môi trường và khả năng chịu tải của môi trường. Thiết lập đồng bộ, thống nhất hệ thống các cơ chế, công cụ quản lý môi trường đối với từng hoạt động phát triển theo hướng quy định rõ chức năng, vai trò, yêu cầu của từng cơ chế, công cụ và có tính hệ thống, sự liên thông, kết hợp giữa các cơ chế, công cụ nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của từng cơ chế, công cụ và cả hệ thống các cơ chế, công cụ quản lý môi trường đối với từng dự án. Các nội dung quy định cụ thể đánh giá tác động môi trường như đối tượng, nội dung, việc lập, cách thức thẩm định, chấp thuận; biện pháp kiểm soát tác động môi trường, phòng ngừa, ứng phó sự cố ô nhiễm môi trường, quản lý và giám sát các tác động môi trường.

Việc sửa đổi, bổ sung Luật nên quy định kế hoạch quản lý môi trường do chủ đầu tư lập, phê duyệt và tổ chức thực hiện để quản lý môi trường đối với dự án đầu tư. Kết hợp các thủ tục hành chính về kiểm soát chất ô nhiễm, quản lý chất thải rắn trong một dự án đầu tư, cơ sở sản xuất, kinh doanh, cơ sở phát sinh chất ô nhiễm, chất thải rắn phải khai báo, đăng ký hoặc đề nghị cấp giấy phép về môi trường theo hướng tích hợp, kết hợp. Quản lý môi trường theo vòng đời dự án; lập kế hoạch, xây dựng, lắp đặt, vận hành, kết thúc, giấy phép môi trường; giám sát, kiểm tra, thanh tra.

Giám sát đối với chất ô nhiễm, chất thải phát sinh theo hướng lấy mẫu, phân tích định kỳ, lắp đặt thiết bị lấy mẫu, phân tích tự động, liên tục, lắp đặt các thiết bị, hệ thống định vị, theo dõi, ghi nhận, lưu giữ số liệu về chất ô nhiễm, chất thải và các hoạt động có liên quan. Kiểm soát nguồn ô nhiễm gồm quy định, danh mục, phân nhóm các chất ô nhiễm cố định, di động, phân tán; phân định mức độ ô nhiễm, độc hại đối với môi trường của các chất ô nhiễm độc hại, thông thường và theo nguy cơ gây ô nhiễm cao, ô nhiễm và ít ô nhiễm…Quản lý chất thải rắn gồm phân nhóm, phân loại, quy định về thu gom, lưu giữ, vận chuyển, sơ chế, tái chế, tiêu hủy, chôn lấp, thải bỏ chất thải rắn; khai báo, đăng ký hoặc cấp phép về môi trường, chế độ giám sát, thanh tra, kiểm tra; cơ sở xử lý, bãi chôn lấp, khu xử lý tập trung, hoạt động thải bỏ; trách nhiệm thu hồi sản phẩm thải bỏ.

Thứ tự ưu tiên trong quản lý chất thải gồm quản lý chất lượng môi trường sống, cảnh quan thiên nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; phân vùng môi trường; khả năng chịu tải; quản lý, kiểm soát các chất, yếu tố gây ô nhiễm, độc hại đối với môi trường; các cách thức, loại hình tác động đối với cảnh quan thiên nhiên, các hệ sinh thái tự nhiên; giám sát, quan trắc diễn biến chất lượng môi trường sống, cảnh báo ô nhiễm; xử lý ô nhiễm môi trường; cải tạo, phục hồi; kiểm soát các chất, yếu tố độc hại trong nguyên, nhiên liệu, sản phẩm, hàng hóa; giám sát ô nhiễm xuyên biên giới, tác động của biến đổi khí hậu…Quy chuẩn kỹ thuật về môi trường như quy định về các chất ô nhiễm, yếu tố ô nhiễm, thông số thể hiện; loại hình hoạt động phát sinh chất ô nhiễm, yếu tố ô nhiễm; giá trị giới hạn có tính đến yếu tố nhạy cảm, khả năng tiếp nhận và việc áp dụng theo thông lệ quốc tế, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.

Cơ hình phạt chính, công cụ kinh tế cần sửa đổi, bổ sung các quy định về thuế, phí, giá dịch vụ; ký quỹ chôn lấp, thải bỏ chất thải; đặt cọc thu hồi sản phẩm thải bỏ, sản phẩm nhựa, nilon sử dụng một lần; bảo hiểm; chính sách ưu đãi, hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất, thương mại và tiêu dùng bền vững, thân thiện với môi trường; sự tham gia của ngân sách nhà nước, ngân hàng, quỹ Bảo vệ môi trường cung ứng nguồn vốn cho bảo vệ môi trường; thị trường hạn ngạch…Mặt khác, Luật sẽ được sửa đổi, bổ sung quy định về sự cố môi trường; thông tin, báo cáo, cơ sở dữ liệu về môi trường; ứng phó với biến đổi khí hậu, tác động xuyên biên giới, các vấn đề môi trường toàn cầu, trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Bài viết trên đây chúng tôi đã gửi tới cho các quý bạn đọc về Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường 2014. Trong quá trình nghiên cứu, nếu bạn có bất kỳ vấn đề gì câu hỏi hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ của chúng tôi, hãy liên hệ ngay với Công ty Luật LVN Group, chúng tôi sẽ hỗ trợ và trả lời một cách tốt nhất.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com