Thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự

Thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự

Một chức năng cần thiết của tố tụng dân sự nói chung và giải quyết vụ án dân sự nói riêng là thúc đẩy bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của nhà nước và quyền, lợi ích hợp pháp của đơn vị. tổ chức, cá nhân. Để thực hiện nhiệm vụ này, một trong những công cụ được Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015) sử dụng là quy định chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản,thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây tổn hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã liệt kê 17 loại Biện pháp khẩn cấp tạm thời cụ thể được áp dụng tại Điều 114 và lần lượt quy định cụ thể từng Biện pháp khẩn cấp tạm thời tại các điều từ Điều 115 đến Điều 132 Bộ luật này. Nhìn chung, các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 được áp dụng  tương đối chính xác và chi tiết, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu và thực tiễn áp dụng, các hạn chế được đặt ra đối với từng hành vi vi phạm pháp luật, điều này tạo ra sự không thống nhất khi áp dụng vào thực tiễn. Trong nội dung trình bày này LVN Group sẽ đề cập đến Thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự. 

Căn cứ pháp lý 

Bộ luật tố tụng dân sự 2015 

1. Đối với biện pháp “giao người chưa thành niên, người bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục”

Điều 115 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến những người này mà họ không có người giám hộ. Trong thực tiễn, việc áp dụng quy định này phát sinh vướng mắc trong trường hợp người chưa thành niên có người uỷ quyền hợp pháp, người giám hộ nhưng họ đang do người không có quyền nuôi dưỡng chiếm giữ thì người có quyền nuôi dưỡng có được yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời này được không. 

2. Đối với biện pháp “kê biên tài sản đang tranh chấp” và biện pháp “cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp

Khoản 1 Điều 120 Bộ luật tố tụng dân sự  năm 2015 quy định, kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản.

Điều 121 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định, cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp cho người khác.

Vì vậy, có thể thấy rằng, mặc dù biện pháp khẩn cấp tạm thời  được quy định ở hai điều khác nhau nhưng có sự trùng lặp về mục đích hướng đến. Theo đó, biện pháp kê biên tài sản có mục đích hướng đến là ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản; biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản có mục đích hướng đến là ngăn chặn hành vi chuyển dịch quyền về tài sản. Tuy nhiên, “chuyển dịch quyền về tài sản” cũng là một dạng của hành vi “tẩu tán tài sản”. Đồng thời, khi tài sản bị kê biên thì mặc nhiên tài sản đó không thể bị chuyển dịch quyền về tài sản.

3. Đối với biện pháp “cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định”

Điều 127 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định, cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy, đương sự hoặc đơn vị, tổ chức, cá nhân khác thực hiện hoặc không thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có liên quan trong vụ án đang được Tòa án giải quyết.

Tuy nhiên, quy định của Điều 127 vô tình tạo khoảng trống để đương sự lạm dụng, né tránh khi yêu cầu Tòa án áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thực tiễn. Theo đó, đương sự có thể yêu cầu Tòa án áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Điều 127 để buộc người đang chiếm hữu, người giữ tài sản hoặc chủ sở hữu tài sản (mà không phải tài sản tranh chấp) không được tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản cho người khác hoặc yêu cầu áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời  đối với phần tài sản có giá trị lớn hơn nghĩa vụ của người bị áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong khi đó, các yêu cầu này thực chất thuộc phạm vi áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời tại các Điều 120, 121, 125, 126 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

4. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản đã chuyển nhượng cho người thứ ba nhưng chưa hoàn thành thủ tục chuyển nhượng

Hiện nay, việc áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với trường hợp quyền sử dụng đất đã được chuyển nhượng cho người thứ ba, chưa hoàn thành thủ tục nhưng có điều kiện công nhận giao dịch còn được hiểu khác nhau.

Cách hiểu thứ nhất, Tòa án không chấp nhận yêu cầu áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời do quyền sử dụng đất đã chuyển nhượng cho người khác trước thời gian yêu cầu. Mặc dù chưa hoàn thành thủ tục nhưng có đủ điều kiện công nhận nên không còn là tài sản của người bị yêu cầu.

Cách hiểu thứ hai, Tòa án vẫn được áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời. Bởi vì, theo hướng dẫn của pháp luật đất đai, pháp luật dân sự, giao dịch chưa hoàn thành thủ tục để người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công nhận là người có quyền sử dụng nên cần phải áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời. Khi Tòa án áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời, người bị yêu cầu sẽ tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Họ có quyền yêu cầu độc lập để Tòa án công nhận giao dịch của họ, qua đó, xác định họ có quyền sử dụng đất. Trong trường hợp, việc yêu cầu áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời gây tổn hại cho người nhận chuyển nhượng thì họ có quyền yêu cầu Tòa án buộc người yêu cầu áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời bồi thường theo khoản 1 Điều 113 Bộ luật tố tụng dân sự  năm 2015 và mục 11 Phần IV Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao. 

Tuy nhiên, trong trường hợp Tòa án chấp nhận áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời  mà phát sinh tổn hại cho người thứ ba thì người yêu cầu áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời phải bồi thường. Việc buộc người yêu cầu áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời phải bồi thường là chưa hợp lý. Bởi vì, Tòa án có thể từ chối áp dụng để tránh tổn hại phát sinh nếu có quy định. 

Trên đây là nội dung trình bày của LVN Group về vấn đề Thực tiễn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thi hành án dân sự. LVN Group hy vọng gửi tới cho quý bạn đọc các thông tin hữu ích về thực tiễn áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thi hành án dân sự. Nếu như có bất cứ điều gì câu hỏi hay quan tâm đến vấn đề này xin vui lòng liên hệ với chúng tôi. 

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com