Thực trạng về hợp đồng vô hiệu trong những năm gần đây - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Thực trạng về hợp đồng vô hiệu trong những năm gần đây

Thực trạng về hợp đồng vô hiệu trong những năm gần đây

Hợp đồng vô hiệu là những Hợp đồng không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định nên không có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên, nhiều người lại chưa hiểu rõ về vấn đề này. Hãy cùng LVN Group nghiên cứu các thông tin vềthực trạng hợp đồng vô hiệu thông qua nội dung trình bày dưới đây để hiểu rõ thêm về vấn đề này !. 

1. Hợp đồng vô hiệu.

Hợp đồng vô hiệu là những Hợp đồng không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định nên không có giá trị pháp lý, không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Hợp đồng dân sự là một dạng của giao dịch dân sự, nên Điều 407 BLDS 2015 có quy định: “Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu”.

Theo quy định tại Điều 122 BLDS các giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện quy định tại Điều 117 thì vô hiệu, cụ thể các giao dịch dân sự muốn có hiệu lực phải có đủ các điều kiện sau:

– Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

2. Phân hoại hợp đồng vô hiệu.

a. Căn cứ vào thủ tục tố tụng.

Căn cứ vào tính chất trái pháp luật của Hợp đồng xâm phạm đến quyền lợi của ai, pháp luật sẽ quy định những thủ tục tố tụng và thời hiệu khởi kiện dân sự tương ứng với từng loại Hợp đồng vô hiệu đó.

Các Hợp đồng xâm phạm đến lợi ích công thì đương nhiên vô hiệu.

Các Hợp đồng xâm phạm tới lợi ích tư thì có 2 yêu cầu: (i) khi có đơn yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan; (ii) có quyết định của Tòa án. Dựa vào căn cứ phân loại này, người ta chia hợpp đồng vô hiệu thành 2 loại: Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và Hợp đồng vô hiệu tương đối.

* Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối.

Là những Hợp đồng bị xem là đương nhiên vô hiệu do việc xác lập Hợp đồng là trái pháp luật, xâm phạm tới lợi ích của nhà nước hoặc lợi ích công cộng.

Hơp đồng thuộc một trong các trường hợp sau thì bị coi là vô hiệu tuyệt đối:

– Hợp đồng vô hiệu do giả tạo;

– Hợp đồng có nội dung, mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật;

– Hợp đồng có nội dung, mục đích trái đạo đức xã hội;

– Hợp đồng không đúng cách thức do pháp luật quy định và đã được Tòa án cho các bên thời hạn để thực hiện đúng quy định về cách thức này nhưng hết thời hạn đó mà các bên vẫn chưa thực hiện; hoặc trường hợp pháp luật có quy định về Hợp đồng vi phạm cách thức nhưng các bên chưa thực hiện Hợp đồng và các bên có tranh chấp thì Hợp đồng bị xem là vô hiệu.

Một Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối thì không giải quyết theo yêu cầu của các bên. Mọi trường hợp đều giải quyết theo hướng dẫn của pháp luật và không được hòa giải, không có quyền công nhận giá trị pháp lý của Hợp đồng trong quá trình thụ lý và giải quyết tranh chấp về Hợp đồng hoặc các nội dung pháp lý có liên quan.

Lưu ý: Thời hiệu kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối là không hạn chế.

* Hợp đồng vô hiệu tương đối.

Là những Hợp đồng được xác lập, nhưng có thể bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan.

Các trường hợp dẫn đến hợp đồng dân sự vô hiệu tương đối:

– Hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập không có năng lực hành vi tương ứng với đòi hỏi của pháp luật đối với loại giao dịch đó;

– Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị đe dọa;

– Hợp đồng dân sự vô hiệu do lừa dối;

– Hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn;

– Hợp đồng dân sự vô hiệu do một người xác lập trong tình trạng người đó không nhận thức, điều khiển được hành vi của mình.

Lưu ý: thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu tương đối là 02 năm tính từ ngày giao dịch dân sự đó được xác lập (khoản 1 Điều 132 BLDS 2015).

b. Căn cứ vào phạm vi bị vô hiệu.

* Hợp đồng vô hiệu toàn bộ.

Là Hợp đồng có toàn bộ nội dung vô hiệu, hoặc tuy chỉ có một phần nội dung vô hiệu nhưng phần đó lại ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ Hợp đồng.

Căn cứ làm cho Hợp đồng vô hiệu có thể xuất phát từ sự vi phạm nội dung Hợp đồng, nhưng cũng có thể là những căn cứ khác như: mục đích, năng lực giao kết Hợp đồng, Hợp đồng giả tạo,…

* Hợp đồng vô hiệu từng phần.

Là những Hợp đồng được xác lập mà có một phần nội dung của nó không có giá trị pháp lý nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần khác của Hợp đồng đó.

Đối với một Hợp đồng vô hiệu từng phần, ngoài phần vô hiệu không được áp dụng, các phần còn lại vẫn có giá trị thi hành, nên các bên vẫn phải tiếp tục thi hành trong phạm vi phầm Hợp đồng vẫn còn hiệu lực.

3. Thực trạng pháp luật về hợp đồng vô hiệu do không tuân thủ quy định về cách thức

Hình thức hợp đồng là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung của hợp đồng, gồm tổng hợp các cách thức, thủ tục, phương tiện để thể hiện và công bố ý chí của các bên, ghi nhận nội dung của hợp đồng và là biểu hiện cho sự tồn tại của hợp đồng

Hình thức của hợp đồng không chỉ là cách thức thể hiện nội dung của hợp đồng mà còn là những thủ tục mà pháp luật quy định bắt buộc các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ khi giao kết một số loại hợp đồng như phải có công chứng, chứng thực…

Theo Vũ Văn Mẫu, vai trò của cách thức hợp đồng có thể tóm tắt trong bốn điểm: (i) các cách thức trọng thể được ấn định cho một số hành vi cần thiết, cốt để các đương sự chú trọng đặc biệt việc mình sắp làm; (ii) các cách thức chứng cứ để dẫn chứng trước pháp luật (luật tố tụng trong trường hợp này chỉ chấp nhận hai cách dẫn chứng: “chứng thư hợp đồng” và “sự thú nhận của đương sự”); (iii) các cách thức cấp-tư-năng nhằm đảm bảo quyền định đoạt của những người chưa hoàn toàn có tư cách chủ thể độc lập để tự mình xác lập các giao dịch dân sự (ví dụ người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi khi xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản của mình); (iv) các cách thức công bố trong trường hợp có liên quan đến người thứ ba

Về nguyền tắc, hợp đồng có thể được giao kết bằng bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mà pháp luật quy định phải tuân theo các cách thức nhất định thì phải tuân theo các quy định đó như bằng văn bản, phải công chứng hoặc chứng thực…  Ví dụ, theo hướng dẫn của Luật Thương mại năm 2005 thì đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế [hợp đồng được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau[7]] thì phải được lập bằng văn bản hoặc bằng cách thức khác có giá trị pháp lý tương đương

Điều 129 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định:  “Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về cách thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:

-Giao dịch dân sự đã được xác lập theo hướng dẫn phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó;

-Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”.

Theo quy định nêu trên của BLDS năm 2015, áp dụng với hợp đồng, chúng ta có thể thấy một số vấn đề sau đây:

Thứ nhất, cách thức của hợp đồng là phương tiện thể hiện nội dung của hợp đồng. Có hai trường hợp hợp đồng được coi là không tuân thủ về cách thức đó là: (i) Hình thức văn bản không đúng quy định của pháp luật và; (ii) Hình thức văn bản vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực.

Thứ hai, điều kiện để hợp đồng không tuân thủ cách thức được Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực đó là tồn tại trên thực tiễn việc một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ hợp đồng.  Nghĩa vụ là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)

Theo đó, đối tượng của nghĩa vụ là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không thực hiện, và đối tượng phải xác định được. Vì vậy, theo Điều 129 BLDS năm 2015 việc thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch có thể hiểu là: (1). Một bên hoặc các bên đã chuyển giao ít nhất hai phần ba vật; (2) Đã chuyển giao ít nhất hai phần ba quyền. (3). Một bên hoặc các bên đã trả ít nhất hai phần ba tiền hoặc giấy tờ có giá. (4). Một bên hoặc các bên đã thực hiện hoặc không thực hiện ít nhất hai phần ba công việc đã thỏa thuận.

Tuy nhiên, không phải việc một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong hợp đồng thì hợp đồng đó đương nhiên có hiệu lực, mà cần có thêm điều kiện là phải thông qua con đường Tòa án. Căn cứ là, theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, sau khi xem xét trọn vẹn các điều kiện của hợp đồng như đã nêu trên thì Tòa án sẽ ra quyết định công nhận hiệu lực của hợp đồng đó

Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định này đã bộc lộ những khó khăn nhất định, cụ thể:

Một là, Không quy định cụ thể những loại hợp đồng nào phải tuân thủ điều kiện cách thức. Điều 129 BLDS năm 2015 không quy định cụ thể những loại hợp đồng nào phải tuân thủ điều kiện cách thức và khi nào thì cách thức của hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mà chỉ quy định về cách thức bắt buộc của một số loại hợp đồng như: Hợp đồng mua bán, tặng cho nhà ở phải được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, và có công chứng, chứng thực theo hướng dẫn của pháp luật… Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật chuyên ngành đặt ra yêu cầu hợp đồng phải có một số nội dung bắt buộc như: Luật Xây dựng quy định hợp đồng xây dựng phải có ít nhất 14 nội dung như khối lượng công việc, yêu cầu kỹ thuật của công việc, thời gian và tiến độ thực hiện hợp đồng… hay Luật Kinh doanh bất động sản yêu cầu hợp đồng mua bán, cho thuê, cho thuê mua nhà hay công trình xây dựng phải có 12 nội dung gồm giá, phương thức và thời hạn thanh toán, thời hạn giao, nhận bất động sản… Trường hợp hợp đồng không có trọn vẹn các nội dung bắt buộc trên thì có thể xem đã vi phạm điều kiện về cách thức của hợp đồng được không?;

Hai là, Điều 129 BLDS 2015 có hai khoản nhưng ranh giới giữa hai điều khoản này rất khó xác định trên thực tiễn. Căn cứ khoản 1 Điều 129 BLDS 2015  đề cập các hợp đồng đã được xác lập theo hướng dẫn phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật. Đồng thời, khoản 2 Điều 129 BLDS 2015 đề cập đến các hợp đồng đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực. Hai khoản này khác nhau ở điểm nào thì khó có câu trả lời, bởi  khoản 2 Điều 119 BLDS quy định về cách thức của hợp đồng chỉ ghi nhận hai cách thức phải tuân thủ là văn bản có công chứng, chứng thực với nội dung: “Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực thì phải tuân theo hướng dẫn đó”.

 Ba là, Theo quy định của Điều 129, hợp đồng vi phạm điều kiện về cách thức nhưng “một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó”. Thực tiễn thực hiện hợp đồng cho thấy, có rất nhiều dạng nghĩa vụ như: nghĩa vụ tài sản, nghĩa vụ phi tài sản …  Vì vậy, cần phải làm rõ việc xác định nghĩa vụ chỉ là nghĩa vụ tài sản hay phải bao gồm tất cả các nghĩa vụ mà hai bên thỏa thuận trong hợp đồng? Khi trong hợp đồng vừa có nghĩa vụ tài sản vừa có nghĩa vụ phi tài sản; một bên phải thực hiện nghĩa vụ tài sản vừa phải thực hiện nghĩa vụ phi tài sản (như thực hiện thủ tục sang tên…), hoặc các bên đều chỉ có nghĩa vụ phi tài sản thì dựa vào tiêu chí gì để được coi là đã thực hiện ít nhất 2/3 nghĩa vụ?. Thực tiễn xét xử trong thời gian qua, việc Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu về cách thức là rất phổ biến, phổ biến tới mức có chuyên gia nhận xét: “Việt Nam là nước vô địch về hợp đồng vô hiệu”.  Ví  dụ, Bản án số 20/2015/KDTM-ST ngày  15/04/2015 về “Tranh chấp hợp đồng thuê nhà”  của Tòa án nhân dân Quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh thì  cách thức của “Thỏa thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 đã lập thành văn bản tuy nhiên, thời hạn thuê nhà giữa hai bên đương sự thỏa thuận là 5 năm không phải 5 tháng như đã thể hiện nên theo hướng dẫn tại Điều 492 BLDS năm 2005 thì phải có công chứng hoặc chứng thực và phải đăng ký. Do vậy, “Thỏa thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 vi phạm Điều 492 BLDS nên “Thỏa thuận thuê nhà” ngày 22/4/2009 vô hiệu về mặt cách thức.

Trên đây là một số thông tin về thực trạng hợp đồng vô hiệu. Hy vọng với những thông tin LVN Group đã gửi tới sẽ giúp bạn trả lời được những câu hỏi về vấn đề trên. Nếu bạn cần hỗ trợ hãy đừng ngần ngại mà liên hệ với Công ty Luật LVN Group, để được chúng tôi hỗ trợ nhanh chóng. LVN Group cam kết sẽ giúp bạn có trải nghiệm tốt nhất về các dịch vụ mà mình gửi tới đến khách hàng. Chúng tôi luôn đồng hành pháp lý cùng bạn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com