Tiếp Cận Thông Tin Là Gì? - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Tiếp Cận Thông Tin Là Gì?

Tiếp Cận Thông Tin Là Gì?

Quyền tiếp cận thông tin của công dân là một quyền hợp pháp được quy định cụ thể tại Hiến pháp 2013. Luật tiếp cận thông tin, cũng quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ tiếp cận thông tin của công dân, trách nhiệm, nghĩa vụ của đơn vị nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân. Bài viết dưới đây LVN Group sẽ mang đến bạn đọc những kiến thức về Tiếp cận thông tin là việc gì? Mời bạn đọc cùng theo dõi

Tiếp Cận Thông Tin Là Gì?

1. Tiếp cận thông tin là việc gì?

Tiếp cận thông tin được quy định tại Khoản 3 Điều 2 Luật Tiếp cận thông tin 2016 (có hiệu lực ngày 01/07/2018) như sau:

Tiếp cận thông tin là việc đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin.

Quyền tiếp cận thông tin của công dân là một quyền hợp pháp được quy định cụ thể tại Hiến pháp 2013. Luật tiếp cận thông tin, cũng quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ tiếp cận thông tin của công dân, trách nhiệm, nghĩa vụ của đơn vị nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân và các hành vi bị nghiêm cấm… cụ thể như sau:

2. Vai trò của việc tiếp cận thông tin

Một là, tự do thông tin là nền tảng cho dân chủ. Nó là yếu tố cần thiết trong việc thu hút sự tham gia của công chúng vào các công việc xã hội. Quyền TCTT giúp công chúng hiểu rõ cơ sở của các quyết định chính sách, từ đó tăng cường khả năng ủng hộ, giảm thiểu những hiểu lầm và sự phản đối của công chúng với các chính sách và hoạt động của bộ máy nhà nước.

Hai là, tự do thông tin góp phần bảo vệ các quyền con người khác. Thực tế ở các quốc gia đã ban hành luật TCTT cho thấy, tự do thông tin giúp tăng cường khả năng thực thi các quyền con người khác về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.

Ba là, tự do thông tin thúc đẩy pháp quyền và quản trị, làm cho các đơn vị chính phủ hoạt động tốt hơn. Thực tế trên thế giới cho thấy, tự do thông tin cũng góp phần cải thiện cách thức và hiệu quả công tác của các đơn vị chính phủ.

Bốn là, hàn gắn mâu thuẫn, chia rẽ xã hội và những vết thương trong quá khứ.

Năm là, tự do thông tin hỗ trợ các hoạt động kinh doanh (thương mại). Khía cạnh này thường bị coi nhẹ, song thực ra rất cần thiết bởi lẽ ở tất cả các quốc gia, hoạt động kinh doanh quyết định sự phát triển của xã hội và thông tin kinh tế hay liên quan đến kinh tế thuộc vào nhóm thông tin được tìm kiếm nhiều hơn cả.

3.  Về quyền của công dân trong việc tiếp cận thông tin

Điều 8 Luật tiếp cận thông tin quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc tiếp cận thông tin đó là:

Công dân có quyền:

– Được gửi tới thông tin trọn vẹn, chính xác, kịp thời;

– Khiếu nại, khởi kiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin.

Theo Nghị định số 13/2018/NĐ-CP ngày 23/01/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luât Tiếp cận thông tin quy định các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi để người dân tiếp cận thông tin như:

Các biện pháp tạo điều kiện thuận lợi để người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin (Điều 2, Nghị định số 13/2018/NĐ-CP)

– Việc gửi tới thông tin được thực hiện bằng nhiều cách thức phù hợp với các đối tượng, điều kiện khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, bao gồm:

+ Thông qua Cổng thông tin điện tử, Trang thông tin điện tử của đơn vị nhà nước (nếu có);

+ Thông qua hệ thống phát thanh, truyền hình trung ương, địa phương và các hệ thống truyền phát tin khác của địa phương; các chương trình phát thanh, truyền hình tiếng dân tộc và các phương tiện thông tin đại chúng khác tại địa phương;

+ Xây dựng tài liệu chuyên đề, tờ rơi, ấn phẩm; trong trường hợp cần thiết và khả thi thì có thể được chuyển tải bằng ngôn ngữ dân tộc;

+ Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên đề, sinh hoạt cộng đồng để chia sẻ thông tin cho công dân; chia sẻ kinh nghiệm về hoạt động gửi tới thông tin cho các khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn;

+ Lồng ghép hoạt động gửi tới thông tin trong các sự kiện văn hóa – chính trị của đơn vị, địa phương, trong kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật, truyền thông các chính sách mới của các đơn vị nhà nước trên địa bàn;

+ Tăng thời lượng truyền, phát bản tin đối với loại thông tin liên quan đến cơ chế, chính sách của người dân sinh sống tại khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn.

– Căn cứ vào loại thông tin, đối tượng cần gửi tới thông tin, đơn vị nhà nước trên địa bàn quyết định lựa chọn một hoặc các cách thức gửi tới thông tin công khai rộng rãi hoặc các cách thức khác phù hợp với khả năng tiếp cận thông tin của công dân.

– Cơ quan gửi tới thông tin phải bảo đảm các cách thức gửi tới thông tin theo yêu cầu phù hợp với khả năng tiếp cận của người yêu cầu gửi tới thông tin và điều kiện thực tiễn của đơn vị; bố trí cán bộ, công chức hướng dẫn, giải thích cho người yêu cầu gửi tới thông tin; tăng cường gửi tới thông tin và tạo thuận lợi cho công dân tiếp cận thông tin bằng hình ảnh, video và các phương tiện nghe, nhìn khác.

– Cơ quan nhà nước tạo điều kiện và khuyến khích doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào việc xây dựng hệ thống thông tin công cộng; nâng cấp, đầu tư các trang thiết bị chuyên dùng phục vụ cho hoạt động gửi tới thông tin của đơn vị nhà nước ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn theo hướng dẫn của pháp luật liên quan.

4. Nghĩa vụ của công dân trong việc tiếp cận thông tin

Công dân có nghĩa vụ:

– Tuân thủ quy định của pháp luật về tiếp cận thông tin;

– Không làm sai lệch nội dung thông tin đã được gửi tới;

– Không xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của đơn vị, tổ chức hoặc của người khác khi thực hiện quyền tiếp cận thông tin.

Về trách nhiệm của đơn vị đầu mối gửi tới thông tin (Điều 8, Nghị định số 13/2018/NĐ-CP)

– Bố trí người làm đầu mối gửi tới thông tin để thực hiện gửi tới thông tin theo hướng dẫn của Luật tiếp cận thông tin.

– Tiếp nhận, xử lý các yêu cầu gửi tới thông tin của công dân; chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan xử lý yêu cầu gửi tới thông tin và thực hiện gửi tới thông tin cho công dân theo yêu cầu.

– Giải thích, hướng dẫn, thông báo cho công dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin theo đúng trình tự, thủ tục; hướng dẫn, hỗ trợ người yêu cầu xác định rõ hồ sơ, tài liệu, tên văn bản có chứa thông tin cần tìm kiếm để điền trọn vẹn, chính xác vào Phiếu yêu cầu gửi tới thông tin.

– Tiếp nhận, trả lời hoặc phối hợp với các đơn vị liên quan trả lời phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của tổ chức, công dân về việc gửi tới thông tin của đơn vị mình theo hướng dẫn của pháp luật có liên quan; kiến nghị, đề xuất với người đứng đầu đơn vị về các vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu gửi tới thông tin cho công dân.

– Theo dõi, đôn đốc việc giải quyết yêu cầu gửi tới thông tin của công dân; tổng hợp tình hình, kết quả công tác gửi tới thông tin thuộc phạm vi trách nhiệm của đơn vị; báo cáo định kỳ và đột xuất tới người đứng đầu đơn vị gửi tới thông tin.

– Bố trí cán bộ, công chức hướng dẫn, giải thích và giúp đỡ người không biết chữ, người khuyết tật, người gặp khó khăn khác trong việc điền Phiếu, ký Phiếu yêu cầu gửi tới thông tin; trường hợp người yêu cầu không thể viết Phiếu yêu cầu thì giúp điền Phiếu yêu cầu gửi tới thông tin.

5. Về trình tự, thủ tục yêu cầu tiếp cận thông tin

Tùy từng trường hợp cụ thể mà tuân thủ trình tự, thủ tục yêu cầu gửi tới thông tin, cụ thể:

Trường hợp gửi tới thông tin trực tiếp tại trụ sở đơn vị gửi tới thông tin: đối với thông tin đơn giản, có sẵn thì có thể gửi tới ngay; đối với thông tin phức tạp, cần tập hợp từ các bộ phận của đơn vị đó hoặc phải có ý kiến của đơn vị khác thì chậm nhất là 10 ngày công tác; trường hợp cần gia hạn tìm kiếm thì tối đa không quá 10 ngày công tác. Người yêu cầu gửi tới thông tin được trực tiếp đọc, xem, nghe, ghi chép, sau chép, chụp tài liệu.

Trường hợp gửi tới thông tin qua mạng điện tử: đối với thông tin đơn giản, có sẵn thì chậm nhất là 03 ngày công tác; đối với thông tin phức tạp, cần tập hợp từ các bộ phận của đơn vị đó hoặc phải có ý kiến của đơn vị khác thì chậm nhất là 15 ngày công tác; trường hợp cần gia hạn thì tối đa không quá 15 ngày công tác. Việc gửi tới thông tin qua mạng điện tử được thực hiện bằng các cách thức: gửi tập tin đính kèm thư điện tử; gửi tới mã truy cập một lần; chỉ dẫn địa chỉ truy cập để tải thông tin.

Trường hợp gửi tới thông tin thông qua dịch vụ bưu chính, fax: đối với thông tin đơn giản, có sẵn thì chậm nhất là 05 ngày công tác; đối với thông tin phức tạp, cần tập hợp từ các bộ phận của đơn vị đó hoặc phải có ý kiến của đơn vị khác thì chậm nhất là 15 ngày công tác; trường hợp cần gia hạn thì tối đa không quá 15 ngày công tác.

Luật Tiếp cận thông tin có ý nghĩa cần thiết trong việc phát huy dân chủ, tạo điều kiện thúc đẩy và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần bảo đảm bình đẳng, công bằng trong xã hội, cũng như đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về thông tin của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp trong sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các đơn vị nhà nước. Luật Tiếp cận thông tin còn góp phần hiệu quả vào công tác phòng, chống tham nhũng; tăng tính minh bạch của thị trường, nâng cao tri thức và sự tham gia của công dân vào hoạt động quản lý nhà nước, góp phần đưa chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” từng bước đi vào cuộc sống.

Trên đây là những nội dung về Tiếp cận thông tin là việc gì? mà chúng tôi muốn mang đến chó bạn đọc. Nếu có vướng mắc phát sinh trong quá trình nghiên cứu, bạn đọc vui lòng liên hệ ngay với chúng tôi để được hỗ trợ trả lời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com