Tội cố ý chiếm đoạt tài sản Bộ luật Hình sự 1999

Với sự phát triển của kinh tế, đời sống, văn hóa – xã hội kéo theo tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng và đa dạng, xuất phát từ nhiều tầng lớp nhân dân và độ tuổi khác nhau. Tệ nạn xã hội luôn là một trong những vấn đề nhức nhối ở nước ta hiện nay. Tội danh lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản là một trong số những tội khá phổ biến và đã được Bộ luật hình sự (BLHS) quy định ngay từ những thời kỳ đầu tiên. Vậy tội cố ý chiếm đoạt tài sản BLHS 1999 được quy định thế nào? Sau đây, Luật LVN Group sẽ giúp quý bạn đọc phân tích và nghiên cứu rõ hơn.

1. Tội cố ý chiếm đoạt tài sản là gì?

  • Lừa đảo là hành vi gian dối để làm người khác tin nhằm thực hiện những mục đích vụ lợi, trái pháp luật .
  • Chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản đang thuộc quản lý của người khác vào phạm vi sở hữu của mình.
Vì vậy, lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi gian dối do một người thực hiện nhằm mục đích dịch chuyển một cách trái pháp luật tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá,… đang thuộc sở hữu, quản lý của người khác vào phạm vi sở hữu của mình.
Tội lừa đảo chiếm tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân.
Tội cố ý chiếm đoạt tài sản BLHS 1999

2. Cấu thành tội cố ý chiếm đoạt tài sản BLHS 1999

2.1. Mặt khách quan

Mặt khách quan của tội này có các dấu hiệu sau:

2.1.1. Về hành vi: Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản

  • Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết (viết thư), bằng hành động …và bằng nhiều cách thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản
  • Chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối
  • Vì vậy, có thể phân biệt với những trường hợp dùng thủ đoạn gian dối khác, chẳng hạn dùng thủ đoạn cân, đong, đo đếm gian dối nhằm ăn gian, bớt của khách hàng hoặc để bán hàng giả để thu lợi bất chính thì không cấu thành tội này mà cấu thành tội lừa dối khách hàng hoặc tội buôn bán hàng giả.
  • Dấu hiệu bắt buộc của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Nếu có hành vi gian dối mà không có hành vi chiếm đoạt (chỉ chiếm giữ hoặc sử dụng), thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi gian dối trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép hoặc tội sử dụng trái phép tài sản, hoặc đó chỉ là quan hệ dân sự
  • Trường hợp hành vi gian dối, hay hành vi chiếm đoạt cấu thành vào một tội danh độc lập khác, thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chí bị truy cứu những tội danh tương ứng đó. Ví dụ, như hành vi gian dối làm tem giả, vé giả …( Điều 164 Bộ luật hình sự), hành vi gian dối trong cân đong đo đếm, tình gian, đánh tráo hàng ( Điều 162 Bộ luật hình sự), hành vi lừa đảo chiếm đoạt chất ma tuý (Điều 194 Bộ luật hình sự), hành vi buôn bán sản xuất hàng giả là lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); hành vi buôn bán sản xuất hàng giả là thức ăn chăn nuôi, phân bón thuốc thú y, bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật nuôi (Điều 158 Bộ luật hình sự) đều có dấu hiệu gian dối.

2.1.2.  Dấu hiệu khác

Về giá trị tài sản chiếm đoạt: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ năm trăm ngàn đồng trở lên
Nếu dưới năm trăm đồng thì phải thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bi kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì người thực hiện hành vi nêu trên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

2.2. Khách thể

Hành vi nêu trên xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác

2.3. Mặt chủ quan

Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý

3. Tội cố ý chiếm đoạt tài sản BLHS 1999

Điều 139 Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản BLHS năm 1999 quy định:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa đơn vị, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một  trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,  thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

4. Giải đáp có liên quan

  • Bộ luật hình sự 1999 được ra đời thế nào?
Giai đoạn từ 1986 đến trước khi có Bộ luật hình sự của năm 1999: Trong khoảng 15 năm tồn tại này, Bộ luật hình sự của năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần vào các năm 1989, năm 1991, năm 1992 và năm 1997.  Bộ luật hình sự năm 1999 được xây dựng trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp lý, tích cực của BLHS năm 1985. So với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 có những thay đổi cơ bản mang tính tương đối toàn diện thể hiện sự phát triển mới của Luật hình sự Việt Nam.
  • Từ năm 1999 đến nay Bộ luật hình sự đã trải qua mấy thời kỳ?
Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời; sau đó được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009. Bộ luật hình sự năm 2015 ra đời thay thể Bộ luật hình sự năm 1999 và được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hiện tại BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 vẫn đang còn hiệu lực.
  • Vì sao có sự khác biệt về mức xử phạt trong BLHS 1999 so với BLHS 2015?
Do tình hình lạm phát ngày càng nhiều dẫn đến đồng tiền bị mất giá, mức xử phạt thời đó không còn phù hợp với thời đại hiện nay nên Chính phủ phải thay đổi pháp luật về mức giá trị tài sản định tội cho phù hợp với thực tiễn.
Quý bạn đọc có thể cân nhắc các nội dung trình bày liên quan: Tội giết người; Tội đánh bạc theo BLHS 1999.
Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu và phân tích của chúng tôi về tội cố ý chiếm đoạt tài sản BLHS 1999, cũng như các vấn đề pháp lý phát sinh có liên quan. Hi vọng có thể trả lời giúp cho bạn đọc những thông tin cơ bản cần thiết, góp phần giúp quá trình thực thi pháp luật trên thực tiễn diễn ra thuận lợi hơn. Trong quá trình nghiên cứu, nếu như quý bạn đọc còn câu hỏi hay quan tâm, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được trả lời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com