Hiện nay, các hoạt động hợp tác kinh doanh ngày càng phát triển mạnh mẽ trong xã hội hiện đại và tiến bộ. Khi thực hiện hoạt động này, chủ thể phải lập hợp đồng. Và vì thế mà những vấn đề liên quan đến tranh chấp hợp đồng là tất yếu tồn tại. Tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh là những mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ hợp đồng giữa các bên đối tác trong quá trình thực hiện hoạt động hợp tác kinh doanh. Hãy cùng Luật LVN Group nghiên cứu về tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh trong nội dung trình bày Tổng hợp một số bản án tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh dưới đây.
1. Khái niệm của hợp đồng hợp tác kinh doanh?
Theo khoản 14 Điều 3 Luật Đầu tư 2020 quy định về hợp đồng hợp tác kinh doanh như sau:
“Hợp đồng hợp tác kinh doanh (sau đây gọi là hợp đồng BCC) là hợp đồng được ký giữa các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm theo hướng dẫn của pháp luật mà không thành lập tổ chức kinh tế.”
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là một cách thức đầu tư được pháp luật quy định, trên cơ sở các bên cùng góp vốn, cùng tham gia quản lý, cùng chịu rủi ro, cùng hưởng kết quả thu được. Tuy nhiên, việc hợp tác kinh doanh sẽ không thành lập một pháp nhân nào.
2. Các vấn đề tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC thường gặp
- Một bên trong hợp đồng muốn rút vốn đầu tư, không tiếp tục thực hiện hợp đồng.
- Tranh chấp về tài sản, lợi tức của hoạt động hợp tác kinh doanh.
- Tranh chấp liên quan đến việc minh bạch trong quản lý việc kinh doanh theo đúng thỏa thuận hợp đồng. Vấn đề này xảy ra khi bên có quyền điều hành kinh doanh cố tình gian dối, hoặc bỏ quan nghĩa vụ minh bạch hoạt động quản lý tài chính của việc hợp tác kinh doanh dẫn đến quyền lợi của các bên góp vốn bị vi phạm nghiêm trọng.
3. Các phương thức, thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng BCC – Ưu nhược điểm
3.1. Thông qua thương lượng
*Ưu điểm
- Nhanh chóng, thuận tiện, linh hoạt, tiết kiệm thời gian và tiền bạc vì phương thực này được thực hiện bằng cơ chế giải quyết nội bộ thông qua việc các bên tranh chấp bàn bạc, thỏa thuận để tự giải quyết.
- Không bị ràng buộc bằng những thủ tục pháp lý phức tạp.
*Nhược điểm
- Cuộc thương lượng có thành công được không phụ thuộc vào thiện chí và thái độ của các bên tham gia.
- Kết quả của cuộc thương lượng phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên có nghĩa vụ thi hành vì phương thức này vẫn chỉ mang tính tùy nghi, không chính thức.
3.2. Thông qua hòa giải
*Ưu điểm
- Đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, linh hoạt và ít tốn kém.
- Ít chịu sự chi phối của các nguyên tắc hay hoạt động của đơn vị công quyền.
- Có sự tham gia của người thứ ba, vừa đảm bảo sự hiểu biết chuyên môn ở lĩnh vực tranh chấp, vừa đáp ứng niềm tin của các bên.
*Nhược điểm
- Phụ thuộc vào sự tự giác của các bên tham gia tranh chấp, khi nếu một trong các bên không trung thực; không hợp tác thì hòa giải cũng khó có được kết quả mong đợi.
- Dễ bị biến tướng; lợi dụng trở thành công cụ trì hoãn nghĩa vụ của và khiến bên có quyền lợi bị vi phạm có khả năng mất quyền khởi kiện.
- Chi phí sẽ tốn hơn so với phương thức thương lượng và nếu hòa giải bất thành thì chi phí này sẽ trở thành gánh nặng bổ sung cho các bên tranh chấp.
3.3. Thông qua Trọng tài
*Ưu điểm
- Bắt buộc phải tuân theo các thủ tục và nguyên tắc nhất định.
- Không bị giới hạn lãnh thổ nên các bên có thể chọn bất kỳ trung tâm nào giải quyết mâu thuẫn cho mình.
- Phán quyết có tính chung thẩm, sau khi phán quyết được trọng tài đưa ra các bên không có quyền kháng cáo ở bất kỳ tổ chức nào khác.
*Nhược điểm
- Tốn kém phí trọng tài nếu tranh chấp càng kéo dài thời gian.
- Không phải lúc nào việc thi hành quyết định của trọng tài cũng thuận lợi như thi hành bản án, quyết định của tòa án.
3.4. Thông qua Tòa án
*Ưu điểm
- Phán quyết của tòa án đưa ra có tính cưỡng chế cao, góp phần cho các chủ thể kinh doanh nâng cao ý thức, tôn trọng pháp luật.
- Các bên có quyền kháng cáo khi bản án xét xử xong mà chưa được thi hành ngay.
*Nhược điểm
- Thủ tục giải quyết tranh chấp rất phức tạp, thời gian kéo dài khá lâu.
- Công khai xét xử không phù hợp tính chất hoạt động kinh doanh cũng như tâm lý của doanh nghiệp.
4. Tổng hợp một số bản án tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh
4.1. Bản án 146/2019/DSPT ngày 21/08/2019 về tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh
– Cấp xét xử: Phúc thẩm
– Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
– Trích dẫn nội dung: “Ngày 26/3/2018, vợ chồng ông ký Hợp đồng thỏa thuận hợp tác kinh doanh với Công ty Cổ phần M (viết tắt là Công ty) để góp vốn kinh doanh và phân chia lợi nhuận với thời hạn là 03 năm. Theo đó, vợ chồng ông góp 150.000.000 đồng để Công ty xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh sản phẩm nội thất nhựa cao cấp, quá trình kinh doanh bị lỗ nên vợ chồng ông liên hệ với Công ty để chấm dứt hợp đồng. Nay vợ chồng ông khởi kiện yêu cầu Công ty trả lại vốn góp còn lại là 136.632.000 đồng, sau khi đã trừ chi phí đầu tư ban đầu theo thỏa thuận.”
4.2. Bản án 913/2019/KDTM-PT ngày 15/10/2019 về tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh
– Cấp xét xử: Phúc thẩm
– Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
– Trích dẫn nội dung: “Công ty HPH có ký Hợp đồng hợp tác số 01/HĐHT-HPH/2017 với Công ty ML. Hai bên thống nhất hợp tác khai thác khu nhà khách Bộ tư lệnh Thành phố H với dịch vụ khách sạn mang thương hiệu MV. Thời hạn hợp đồng hợp tác kinh doanh đến hết ngày 06/6/2023. Theo đó, Công ty ML sẽ được hưởng toàn bộ lợi nhuận, lợi ích thu được từ hoạt động kinh doanh và từ năm 2017 đến năm 2020 chia lợi nhuận cho Công ty HPH là 28.000 USD/tháng, từ năm 2020 đến năm 2023 là 30.800 USD/tháng. Công ty HPH có nhận số tiền cọc của Công ty ML là 3.184.300.000 đồng. Ngay sau khi ký kết hợp đồng, Công ty HPH đã tiến hành bàn giao toàn bộ công trình và trang thiết bị đầu tư tại đây cho Công ty ML để tiến hành việc kinh doanh khách sạn. Công ty ML vẫn thanh toán số tiền chia lợi nhuận trọn vẹn bằng tiền đồng Việt Nam qua tài khoản của Công ty HPH cho đến tháng 6/2018 thì Công ty ML không thanh toán tiền lợi nhuận mặc dù vẫn đang tiếp tục hoạt động kinh doanh tại đây.”
4.3. Bản án 09/2020/KDTM-PT ngày 29/09/2020 về tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh
– Cấp xét xử: Phúc thẩm
– Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
– Trích dẫn nội dung: “Do có mối quan hệ quen biết với nhau nhiều năm nên Quách Trường T và Huỳnh Thanh T1 đã hai lần thực hiện việc thỏa thuận hợp tác kinh doanh đầu tư vào dự án để thu lợi nhuận. Đối với hai dự án đều do ông Huỳnh Thanh T1 uỷ quyền cho công ty ký kết. Về việc giao nhận tiền đều do ông T1 và ông T tự giao nhận với nhau, sau khi nhận đủ tiền thì ông T1 và ông T mới lập biên nhận nhận tiền. Việc giao nhận tiền không có người chứng kiến. Sau khi ký kết hợp đồng và nhận tiền, phía công ty vi phạm hợp đồng. Căn cứ là: Công ty không gửi tới thông tin về việc đầu tư, không thông tin về tiến độ thực hiện dự án, không trao đổi, bàn bạc, chia lợi nhuận cho ông T theo thỏa thuận, thậm chí còn trốn tránh, ngăn cản không cho ông T vào dự án và không thừa nhận phần vốn ông T đã góp vào công ty.”
Trên đây là nội dung giới thiệu của chúng tôi về Tổng hợp một số bản án tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng như các vấn đề pháp lý khác có liên quan trong phạm vi này. Trong quá trình nghiên cứu nếu quý khách hàng còn câu hỏi hay quan tâm và có nhu cầu tư vấn và hỗ trợ vui lòng liên hệ với chúng tôi.