Làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của con người. Người phạm tội phải là người có hành vi (bằng lời nói hoặc hành động) xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác như lăng mạ, chửi rủa thậm tệ, cạo đầu, cắt tóc, lột quần áo, quay clip… gây nhiều tổn thất lớn cho nạn nhân về cả thể chất lẫn tinh thần. Vậy tội làm nhục người khác bị xử phạt thế nào? Bài viết dưới đây về Tổng hợp một số bản án về tội làm nhục người khác – Cập nhật năm 2023 hi vọng đem đến nhiều thông tin cụ thể và chi tiết đến Quý bạn đọc.
Tổng hợp một số bản án về tội làm nhục người khác- Cập nhật năm 2023
I. BẢN ÁN 134/2021/HS-PT NGÀY 10/05/2021 VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC
Ngày 10 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 88/2021/TLPT-HS ngày 11 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn N do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 02/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn N, sinh năm 1992 tại Đồng Nai; Nơi cư trú: Ấp H, xã H1, huyện B, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn C (sinh năm 1953) và bà Hồ Thị B (sinh năm 1954); Bị cáo không có vợ con; Tiền án: không;
Tiền sự: Ngày 16/3/2020, bị Công an xã Bàu Hàm, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai xử phạt vi phạm hành chính về hành vi ném đá vào người khác (tiền phạt là 750.000 đồng);
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – Có mặt;
Bị hại:
1. Bà Vũ Thị Minh C1, sinh năm 1970;
Địa chỉ: Số 7/9 Lê Hồng Phong, Khu phố 5, thị trấn B, huyện B, tỉnh Đồng Nai (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
2. Bà Lương Thị L, sinh năm 1975;
Địa chỉ: Số 22, Đường 2/9, Khu phố 4, thị trấn B, huyện B, tỉnh Đồng Nai (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 24/12/2019, Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai ra Quyết định phê duyệt phương án đo đạc thành lập bản đồ địa hình, cắm mốc xác định cao trình +79,29 mét ngoài thực địa; biên tập bản đồ địa chính khu vực công trình thuỷ lợi hồ S, xã H1, huyện B. Nguyễn Văn N là người dân sinh sống tại ấp H, xã H1 thuộc khu vực hồ S, N sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S, sim số 0939.209.239 và tạo tài khoản facebook cá nhân “Hồ Bàu Hàm” số ID 100.010.463.404.245 và Blog cá nhân “Người Bàu Hàm” để sử dụng. N cho rằng việc Ủy ban nhân dân huyện Trảng Bom uỷ quyền là bà Vũ Thị C1 – Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện và bà Lương Thị L – Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện là những người trực tiếp phụ trách, chỉ đạo việc giải quyết theo phương án của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Nai nêu trên tại khu vực công trình thủy lợi hồ S, thuộc xã H1, huyện B ảnh hưởng tới quyền lợi của N nên N đã sử dụng 02 tài khoản facebook trên để phát trực tiếp các video có âm thanh, hình ảnh của N, trong đó có những lời nói xúc phạm, miệt thị, chửi rủa đối với bà Vũ Thị C1, bà Lương Thị L. N kêu gọi người xem chia sẻ các video này với mục đích hạ thấp uy tín, danh dự, gây áp lực đối với bà C1 và bà L.
Sau khi biết việc N sử dụng mạng xã hội (facebook) để phát trực tiếp có lời nói xúc phạm tới uy tín, danh dự, nhân phẩm của mình, bà Vũ Thị C1 và bà Lương Thị L đã có đơn tố cáo N có hành vi xúc phạm tới nhân phẩm, danh dự của bà L, bà C1 gửi tới Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom để xử lý, giải quyết theo hướng dẫn của pháp luật.
Ngày 14/8/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom tiến hành trích xuất dữ liệu điện tử từ tài khoản facebook “Hồ Bàu Hàm” số ID 100.010.463.404.245 của Nguyễn Văn N: 01 video có thời gian là 49 phút 37 giây phát trực tiếp ngày 18/5/2020 và 01 video có thời gian là 23 phút 49 giây phát trực tiếp ngày 17/6/2020. 02 video này lưu trữ trong 01 USB màu đen, dung lượng 08GB (đã niêm phong).
Ngày 24/8/2020 và ngày 25/9/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã tiến hành trưng cầu giám định đối với nội dung 02 video lưu trữ trong 01 USB đã thu giữ vào ngày 14/8/2020.
+ Tại bản Kết luận giám định tư pháp ngày 08/9/2020 của Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Đồng Nai kết luận: Nội dung trong video đã kêu gọi mọi người xem nên chia sẻ nhiều trang, nhiều nhóm để gây ảnh hưởng rất lớn cho video này. Đoạn video dài 49 phút 37 giây gồm (phút thứ 16 giây 42; phút thứ 17 giây 45; phút thứ 20 giây 48; phút thứ 28 giây 08) và đoạn video dài 23 phút 49 giây gồm (phút thứ 20 giây 45; phút thứ 22 giây 12) trong đó có một số nội dung liên quan đến bà Lương Thị L. Những nội dung trên vi phạm tại điểm b, khoản 3, Điều 16, Chương III Luật An ninh mạng và điểm d, khoản 1, Điều 5, Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 Quản lý, gửi tới, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng.
+ Tại bản Kết luận giám định tư pháp ngày 20/10/2020 của Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Đồng Nai kết luận: Nội dung trong video đã kêu gọi mọi người xem nên chia sẻ nhiều trang, nhiều nhóm để gây ảnh hưởng rất lớn cho video này. Đoạn video dài 49 phút 37 giây gồm (phút thứ 15 giây 40; phút thứ 17 giây 45; phút thứ 19 giây 31; phút thứ 20 giây 48; phút thứ 28 giây 08) trong đó có một số nội dung liên quan đến bà Vũ Thị C1. Các nội dung liên quan đến bà Lương Thị L đã có trong Kết luận Giám định tư pháp ngày 08/9/2020 do đó không Kết luận lại tại Giám định này. Những nội dung trên vi phạm tại điểm b, khoản 3, khoản 5, Điều 16, Chương III Luật An ninh mạng và điểm d, khoản 1, Điều 5 Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 Quản lý, gửi tới, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng.
Ngày 03/11/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị cáo đối với Nguyễn Văn N về tội “Làm nhục người khác” quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự, để điều tra. Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Văn N đã thành khẩn khai báo.
– Vật chứng: Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F1S bị cáo N sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, sau khi phạm tội bị can N đã vứt bỏ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom không thu hồi được.
– Về dân sự: Bà Vũ Thị C1 và bà Lương Thị L không yêu cầu bị cáo phải bồi thường về dân sự.
Tại bản án sơ thẩm số 02/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom đã áp dụng điểm b, e khoản 2 Điều 155; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 01 (một) năm tù về tội “Làm nhục người khác”; Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện hoặc bị áp giải đi thi hành án.
Mặt khác, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 15/01/2021, bị cáo có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ vụ án.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo, bị cáo đồng ý tội danh, bị cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đúng người, đúng tội; Tuy nhiên, mức án 01 năm tù là quá nặng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Khẳng định Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo về tội “Làm nhục người khác” tại điểm b, c khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự là đúng, mức án 01 năm tù là tương xứng tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, không nặng như kháng cáo bị cáo nêu, do đó đề nghị giữ nguyên án sơ thẩm. Tuy nhiên, tại tòa hôm nay bị cáo đã thay đổi nội dung kháng cáo, bị cáo nhận tội, chỉ kháng cáo xin hưởng án treo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng, các đơn vị tiến hành tố tụng sơ thẩm và phúc thẩm đều thực hiện trọn vẹn, trình tự thủ tục theo hướng dẫn pháp luật. Bị cáo kháng cáo trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung vụ án: Bị cáo Nguyễn Văn N là người dân sinh sống tại ấp H, xã H1 thuộc khu vực hồ S, xã H1, huyện B. Vì cho rằng quá trình triển khai công trình thuỷ lợi hồ S, xã H1, huyện B ảnh hưởng tới quyền lợi của bị cáo nên bị cáo N đã sử dụng sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F1S, sim số 0939.209.239 và tạo tài khoản facebook cá nhân “Hồ Bàu Hàm” số ID 100.010.463.404.245 và Blog cá nhân “Người Bàu Hàm” để phát trực tiếp các video có âm thanh, hình ảnh trong đó, có những lời nói xúc phạm, miệt thị, chửi rủa với mục đích hạ thấp uy tín, danh dự, gây áp lực đối với bà Vũ Thị C1 (Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B) và bà Lương Thị L (Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B).
Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Làm nhục người khác” theo hướng dẫn tại điểm b, e khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không oan sai.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo: Những nội dung trong 02 đoạn video nêu trên đã vi phạm điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 16 Luật An ninh mạng và điểm d khoản 1 Điều 5 Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 về quản lý, gửi tới, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng, nội dung trong video đã kêu gọi mọi người xem nên chia sẻ nhiều trang, nhiều nhóm để ảnh hưởng rất lớn cho video. Đến ngày 14/8/2020, tài khoản “Hồ Bàu Hàm” đoạn video dài 23 phút 49 giây có 3.700 lượt xem và đoạn video dài 49 phút 37 giây có 4.000 lượt xem. Qua xem xét nội dung của 02 đoạn video nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy: Những lời nói của bị cáo trong 02 video nêu trên đã xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của các bị hại. Do đó, hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn N đã phạm vào tội “Làm nhục người khác” theo hướng dẫn tại các điểm b, e khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thấy: Bị cáo có 01 tiền sự, không có tiền án. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo là bộ đội xuất ngũ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ theo hướng dẫn tại điểm Viện kiểm sát nhân dân, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm xử bị cáo mức án 01 năm tù là phù hợp. Bị cáo có nhân thân xấu, có tiền sự nên không đủ điều kiện hưởng án treo theo hướng dẫn.
[4] Về quan điểm của uỷ quyền Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại a Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
phiên tòa phù hợp với nhận định củ 4 [5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo hướng dẫn pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn N, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 02/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom;
2. Áp dụng điểm b, e khoản 2 Điều 155; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 01 (một) năm tù về tội “Làm nhục người khác”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo tự nguyện hoặc bị áp giải đi thi hành án.
3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016;
Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
II. BẢN ÁN 15/2019/HSST NGÀY 08/04/2019 VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC
Ngày 08 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 16/2019/HSST ngày 28 tháng 02 năm 2019. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXXST – HS ngày 21 tháng 3 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Lý Thị H, sinh năm 1974 tại Thái Nguyên Nơi cư trú: T3, xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nữ; Tôn giáo:
Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Văn L và bà Đặng Thị K; bị cáo có chồng và 02 người con lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt) 2. Họ và tên: Trịnh Thị Hương L, sinh năm 1996 tại Bình D1.
Nơi cư trú: T3, xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Công S và bà Nguyễn Thị T; bị cáo có chồng và 01 người con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt) – Bị hại: Phạm Thị H1, sinh năm 1977 (Vắng mặt, đã có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: T6, xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Vy Thị T, sinh năm 1979 (Vắng mặt, đã có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: T3, xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
2. Cấn Thị Mai L1, sinh năm 1987 (Vắng mặt) Địa chỉ: T6, xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
3. Nguyễn Văn D, sinh năm 1993 (Có mặt) Địa chỉ: T3, xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
4. Nguyễn Văn D1, sinh năm 1993 (Có mặt) Địa chỉ: T8, xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
– Người làm chứng:
1. Nguyễn Văn H2, sinh năm 1973 (Có mặt) Địa chỉ: T3, xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
2. Lại Hữu T, sinh năm 1971 Địa chỉ: Thôn 2, xã Bình Minh, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 19/7/2018, Lý Thị H nghi ngờ chồng mình là anh Nguyễn Văn H2 đang ở cùng chị Phạm Thị H1 tại Thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng. Nên H rủ Trịnh Thị Hương L, Nguyễn Văn D (là con trai và con dâu), Vi Thị T, Cấn Thị Mai L1, Nguyễn Văn D1 cùng lên xe 07 chỗ, biển số 93A – 124.20 do H thuê anh Lại Hữu T ở xã BB huyện Bù Đăng, chở đi bắt quả tang anh H2 ngoại tình với chị H1. Khi ra đến Thị trấn Đức Phong, H sử dụng điện thoại định vị thì biết anh H2 đang ở nhà nghỉ “Thanh Xuân”, thuộc khu Đức Thọ, Thị trấn Đức Phong. Nên H, L, D, T, L1 và D1 đi vào nhà nghỉ bắt gặp anh H2 và chị H1 đang ở chung phòng số 8. Khi này, D1 ôm anh H2 để D, H, L1 xông vào trong phòng, H và D dùng tay đánh vào mặt và chửi bới chị H1, rồi D, L1, H túm tóc, cầm tay kéo chị H1 ra khỏi phòng. Khi ra tới hành lang của nhà nghỉ thì L1 dùng tay xé rách áo thun của chị H1, H cũng tham gia xé và lột áo khỏi người chị H1, còn T đứng chửi bới. H dùng điện thoại di động quay lại toàn bộ sự việc để làm bằng chứng. D1 buông ông H2 ra rồi cùng tham gia với H và L1. D túm tay chị H1 trong trạng thái không mặc áo từ trên cầu thang đến sân nhà nghỉ, còn T đứng chửi bới. H dùng điện thoại di động quay lại toàn bộ sự việc để làm bằng chứng. D1 buông ông H2 ra rồi cùng tham gia với H và L1. D túm tay chị H1 trong trạng thái không mặc áo từ trên cầu thang đến sân nhà nghỉ. D1 cũng giằng co với chị H1 để lấy điện thoại trong tay chị H1. Cùng lúc đó, L sử dụng điện thoại di động quay video lại toàn cảnh trên và chửi bới chị H1. Sau đó, D, L1, D1, H, T, L cùng chị H1 lên xe ô tô đi về nhà chị H để gặp anh H2 giải quyết sự việc. Trên đường về, L đã đưa đoạn video quay lại tại nhà nghỉ “Thanh Xuân” lên mạng xã hội (Facebook) bằng tài khoản HuongLTrinh. Khi chị H1 về đến cổng nhà chị H, thì L1 xuống xe rồi được chồng chở về nhà. Còn chị H1 đi vào ngồi ở sân nhà, T đi vào nhà H ngồi trên hè, còn D1 ngồi ngoài một lúc rồi đi qua nhà bên cạnh chơi. Do ông H2 không về để giải quyết và bực tức thái độ của chị H1, nên H dùng tay tát chị H1 01 cái, rồi cùng L xông vào lột hết quần áo của chị H1 ra. Sau đó, H dùng điện thoại di động quay video, nhưng quay được 03 đến 04 phút thì điện thoại hết dung lượng nên đoạn video không lưu lại được. Do có nhiều người dân đến xem, nên chị H1 tự mặc quần áo vào người. Nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Công an xã BB đã mời những người có liên quan về trụ sở công tác.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình nêu trên. Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm về tội danh đã truy tố đối với bị cáo.
Vật chứng vụ án: 01 điện thoại di động OPPO màu đen và 01 điện thoại di động OPPO màu trắng đơn vị điều tra đã chuyển giao cho đơn vị thi hành án để xử lý theo hướng dẫn của pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo đã bồi thường cho bị hại là chị Phạm Thị H1 20.000.000 đồng. Chị H1 đã làm đơn rút yêu cầu và không có yêu cầu gì thêm.
Tại bản cáo trạng số: 18/CT –VKS.BĐ ngày 25/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố các bị cáo Lý Thị H và Trịnh Thị Hương L về “Làm nhục người khác” theo điểm a, e khoản 2 Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa uỷ quyền viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, uỷ quyền Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Về tội danh đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lý Thị H và Trịnh Thị Hương L phạm “Làm nhục người khác”; về hình phạt:
– Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 155, điểm b, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lý Thị H từ 18 tháng đến 24 tháng cải tạo không giam giữ.
Áp dụng điểm a, e khoản 2 Điều 155, điểm b, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trịnh Thị Hương L từ từ 30 tháng đến 36 tháng cải tạo không giam giữ.
Về vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo hướng dẫn của pháp luật.
Các bị cáo Lý Thị H và Trịnh Thị Hương L thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với uỷ quyền Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo hướng dẫn của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Vào ngày 19/07/2018 Lý Thị H, Trịnh Thị Hương L, Vi Thị T, Cấn Thị Mai L1, Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn D1 đã có hành vi chửi bới, đánh đập, lột quần, áo của chị Phạm Thị H1 tại nhà nghỉ “Thanh Xuân” thuộc khu Đức Thọ, TT. Đức Phong, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước. Đồng thời dùng điện thoại quay video để làm nhục, Trịnh Thị Hương L đã đăng tải lên facebook ngoài ra, sau khi chị Phạm Thị H1 lên xe ô tô theo về nhà chị H ở T3, xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước thì H còn dùng tay tát 02 cái vào mặt của chị H1 và cùng với L tiếp tục lột quần áo của chị H1 còn H dùng điện thoại quay video cảnh chị H1 không mặc quần áo.
Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của các bị cáo Lý Thị H và Trịnh Thị Hương L đã phạm vào tội “Làm nhục người khác” theo điểm a, e khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Điều 155. Tội làm nhục người khác 1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Vì vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo đã có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, do nóng nảy, thiếu kiềm chế các bị cáo đã cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an ở địa phương. Các bị cáo đã xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người khác, đây là quyền nhân thân được nhà nước và pháp luật bảo hộ.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi phạm tội đã bồi thường khắc phục hậu quả, được người bị hại rút đơn yêu cầu và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Mặt khác bị cáo Lý Thị H có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo Trịnh Thị Hương L đang nuôi con nhỏ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, i, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân các bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà các bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên đề nghị về hình phạt của Viện kiểm sát là có căn cứ. Do điều kiện hoàn cảnh của các bị cáo khó khăn nên miễn khấu trừ thu nhập đối với các bị cáo. Tuy nhiên, các bị cáo phải thực hiện một số công việc lao động cộng đồng theo khoản 4, Điều 36 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[5] Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Cần tịch thu sung công quỹ: 01 điện thoại di động OPPO màu đen và 01 điện thoại di động OPPO màu trắng
[6] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo hướng dẫn tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Đối với Vi Thị T, Cấn Thị Mai L1, Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn D1 sau khi bị khởi tố người bị hại chị Phạm Thị H1 đã làm đơn rút yêu cầu khởi tố. Căn cứ khoản 2 Điều 155 và điểm a khoản 1 Điều 230 Bộ luật tố tụng hình sự Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bù Đăng đã đình chỉ điều tra đối với T, L1, D và D1. Xét thấy, hành vi của Vi Thị T, Cấn Thị Mai L1, Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn D1 không tham gia vào hành vi làm nhục chị H1 lần 2 tại nhà của bị cáo Lý Thị H. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bù Đăng đình chỉ điều tra đối với T, D, L1 và D1 là có căn cứ.
Đối với Lại Hữu T chỉ là người lái xe ô tô thuê, khi được H thuê anh T không biết và không tham gia vào việc làm nhục chị H1 nên không đề cập xử lý.
Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Lý Thị H và Trịnh Thị Hương L phạm “ Tội Làm nhục người khác”.
– Áp dụng điểm a khoản 2, Điều 155, điểm b, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Lý Thị H 02 (Hai) năm cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Bị cáo H còn phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
– Áp dụng điểm a, e khoản 2, Điều 155, điểm b,s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Trịnh Thị Hương L 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Bị cáo L còn phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.
Giao bị cáo Lý Thị H và Trịnh Thị Hương L về Ủy ban nhân dân xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước để giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo Lý Thị H và Trịnh Thị Hương L có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã BB, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước trong việc giám sát giáo dục các bị cáo.
[2] Vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuyên tịch thu sung công quỹ: 01 điện thoại di động OPPO màu đen và 01 điện thoại di động OPPO màu trắng. Đựng trong 01 phong bì được niêm phong có chữ ký của Điều tra viên Trịnh Văn Sỹ và dấu mộc đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bù Đăng.
(Theo biên bản giao, nhận vật chứng số 0009673 ngày 19/02/2019 của Chị cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng) [3] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết tại địa phương, nơi cư trú.
III. Các câu hỏi liên quan thường gặp
1. Tội làm nhục người khác là gì?
Theo Điều 155 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 (BLHS), có thể thấy:
Làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.
Trong đó, theo từ điển Tiếng Việt:
- Nhân phẩm: là “phẩm chất và giá trị con người”
-
Danh dự: là “sự coi trọng của dư luận xa hội, dựa trên giá trị tinh thần, đạo đức tốt đẹp”.
2. Làm nhục người khác trên mạng xã hội có bị đi tù không?
Hành vi lăng mạ, làm nhục người khác trên mạng xã hội thì tuỳ theo mức độ; tính chất của hành vi sẽ bị xử phạt hành chính (Điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP) hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác.
Trên đây là nội dung trình bày mà chúng tôi gửi tới đến Quý bạn đọc về Tổng hợp một số bản án về tội làm nhục người khác- Cập nhật năm 2023. Trong quá trình nghiên cứu và nghiên cứu, nếu như quý bạn đọc còn câu hỏi hay quan tâm đến Tổng hợp một số bản án về tội làm nhục người khác- Cập nhật năm 2023, quý bạn đọc vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn.