Hiện nay, có một số trường hợp các chủ thể cần nghiên cứu về các loại tội phạm, trong số đó có thể kể đến Tội trốn thuế. Để hiểu rõ thêm về loại tội phạm này, mời bạn đọc theo dõi nội dung trình bày về Tổng hợp một số bản án về tội trốn thuế cùng với LVN Group:
Tổng hợp một số bản án về tội trốn thuế – Cập nhật năm 2023
1. Tội trốn thuế
2. Tổng hợp một số bản án về tội trốn thuế
2.1 Quyết định giám đốc thẩm số 12/2016/HS-GĐT ngày 04/08/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Nội dung vụ án: Công ty B được thành lập ngày 12/08/2007, do Trần Thị Quý P làm giám đốc, trụ sở tại đường C, phường D, thành phố E, tỉnh Gia Lai. Việc điều hành công ty do P quyết định mọi việc, các cổ đông không tham gia. Trong quá trình thi công 11 công trình từ năm 2009 đến năm 2011, P đã có hành vi phạm tội là:
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản: từ năm 2009 đến 2011, Công ty B có quan hệ mua bán vật liệu xây dựng với Doanh nghiệp tư nhân của Võ Thị T là người trực tiếp điều hành, ông Nguyễn Quốc T là chủ doanh nghiệp và mua bán nhiên liệu với doanh nghiệp P do Huỳnh Thị Kim A làm chủ. Các doanh nghiệp này có hành vi gửi tới 67 hóa đơn GTGT khống cho P. P đã dùng để kê khai hoàn thuế khấu trừ của 02 năm 2010 và 2011, chiếm đoạt của Nhà nước 1.652.773.415 đồng.
Trốn thuế: Trong 1.991.262.018 đồng tiền thuế gây tổn hại cho nhà nước, có 10 hóa đơn có số tiền 140.781.700 đồng được kê khai khấu trừ thuế trong các tháng 6, 7 năm 2010 và tháng 10,11 năm 2011, không nằm trong hai kỳ hoàn thuế của Công ty B để trốn thuế với số tiền 140.781.700 đồng.
Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản: Từ tháng 11/2008 đến năm 2011, Công ty B trúng thầu nhiều công trình trên địa bàn tỉnh Gia Lai với tổng số tiền đầu tư là 112.324.645.000 đồng. Công ty B đã tạm ứng 49.114.900.000 đồng, nhưng P không nhập quỹ, không hạch toán trên sổ sách dẫn đến không có khả năng trả nợ tiền tạm ứng cho các chủ đầu tư. Thông qua hành vi gian dối và sử dụng tài sản không hợp pháp, P chiếm đoạt số tiền của Ban quản lý dự án là 12.685.385.342 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Xử phạt Trần Thị Quý P 11 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, 13 năm tù về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, 03 tháng tù về tội Trốn thuế, tổng cộng P phải chấp hành hình phạt chung là 24 năm 03 tháng tù.
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Xử phạt Trần Thị Quý P 08 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, 12 năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và 09 tháng cải tạo không giam giữ chuyển thành 03 tháng tù về tội “Trốn thuế”; tổng hợp hình phạt chung cho cả ba tội, buộc bị cáo Trần Thị Quý P phải chấp hành là 20 năm 03 tháng tù.
Về vật chứng liên quan đến vụ án: Giao cho bà Đặng Thị Lan P chiếc xe ô tô Volkswagen Tiguan Das Package, biển số 81A-00278. Bà Đặng Thị Lan P được quyền liên hệ với đơn vị có thẩm quyền để hoàn chỉnh thủ tục sang tên sở hữu.
Nhận định của Tòa án cấp Giám đốc thẩm: Trần Thị Quý P đã sử dụng 1.667.500.000 đồng trong tổng số tiền tạm ứng của Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng huyện K để mua chiếc xe tặng cho ông Trần Thế V, nguyên Giám đốc sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh X nhằm mục đích tạo mối quan hệ để ông V giúp đỡ Công ty của bị cáo trong quá trình hoạt động.
Lời khai trên của Trần Thị Quý P phù hợp với thực tiễn là sau khi mua xe ô tô và làm các thủ tục đăng ký lấy biển số xe xong, Trần Thị Quý P đã giao chiếc xe này cho gia đình ông Trần Thế V sử dụng ngay.
Từ lúc mua xe đến lúc vụ án bị phát hiện, không có cá nhân nào trong gia đình P hoặc chuyên viên của Công ty B sử dụng. Chiếc xe ô tô biển kiểm soát 81A-00278 đứng tên Công ty B do Trần Thị Quý P làm giám đốc đã được mua từ nguồn tiền tạm ứng của Ban quản lý các dự án đầu tư xây dựng huyện K, hiện nay Công ty B của Trần Thị Quý P còn nợ tiền tạm ứng của Ban quản lý dự án K và không có khả năng thanh toán nợ.
Vì vậy, Hợp đồng mua bán xe số 01/2011/HĐMB ngày 24/9/2011 và Hợp đồng ủy quyền xe ô tô ngày 30/9/2011 giữa Trần Thị Quý P và bà Đặng Thị Lan P có nội dung trái pháp luật. Chiếc xe ô tô này là vật chứng của vụ án cần phải được thu hồi để bảo đảm việc trả nợ của Công ty B đối với khoản tiền đã tạm ứng của các Ban quản lý dự án và bảo đảm thi hành án đối với bị cáo Trần Thị Quý P.
Giám đốc thẩm quyết định: Hủy Bản án hình sự phúc thẩm về phần xử lý vật chứng là chiếc xe ô tô biển được giao dịch giữa bị cáo Trần Thị Quý P và bà Đặng Thị Lan P; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
2.2 Bản án số 35/2017/HSST ngày 31/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện A Thành phố Hải Phòng
Nội dung vụ án: Doanh nghiệp tư nhân V do Nguyễn Danh H làm Giám đốc. Trong khoảng thời gian từ tháng 8/2012 đến tháng 3/2014, Nguyễn Danh H mua nhiều hàng hóa là vật tư, phụ tùng ô tô trôi nổi trên thị trường không có hóa đơn chứng từ nguồn gốc để phục vụ hoạt động kinh doanh nghề sửa chữa ô tô.
H đã hợp thức hóa bằng cách mua 10 hóa đơn giá trị gia tăng khống (hóa đơn không có hàng hóa kèm theo) của Công ty Đ do Trương Văn Đ1 bán ra, bao gồm các hóa đơn với tổng số tiền mua hàng chưa thuế là 3.520.572.000 đồng, tiền thuế là 352.057.200 đồng. Với việc sử dụng 10 hóa đơn trên để kê khai với Chi cục thuế huyện A vào các kỳ từ tháng 8, 9 năm 2012; tháng 8, 9, 10, 11, 12 năm 2013; tháng 01, 02, 03 năm 2014, Doanh nghiệp tư nhân V đã được Chi cục thuế huyện A khấu trừ tiền thuế giá trị gia tăng là 352.057.200 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Bị cáo Nguyễn Danh H đã có hành vi sử dụng 10 tờ hóa đơn lập khống của Công ty Đ để kê khai với Chi cục Thuế huyện A nhằm mục đích trốn tiền thuế giá trị gia tăng đầu vào, số tiền trốn thuế là 352.057.200 đồng. Tính chất vụ án tuy ít nghiêm trọng nhưng hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý thuế của Nhà nước làm thất thu ngân sách Nhà nước, xâm hại đường lối phát triển kinh tế, xã hội, gây mất trật tự xã hội, gây dư luận xấu trong nhân dân.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Xử phạt bị cáo Nguyễn Danh H 09 tháng tù về tội trốn thuế. Về phần trách nhiệm dân sự, bị cáo phải nộp số tiền 352.057.200 đồng để nộp ngân sách Nhà nước qua Chi cục Thuế huyện A, TP. Hải Phòng.
2.3 Bản án số 101/2017/HS-PT ngày 13/9/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh
Nội dung vụ án: Công ty Đ, gồm 02 thành viên góp vốn là Võ Thị T, Nguyễn Thị Mộng T1. Người uỷ quyền theo pháp luật của công ty là bà Võ Thị T giữ chức danh Giám đốc Công ty.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, Nguyễn Thị Mộng T1 là người trực tiếp thực hiện các hoạt động: kê khai các thủ tục hải quan để nhập khẩu hàng hóa, tìm đối tác, hợp đồng mua bán, viết hóa đơn xuất hàng, thanh toán tiền hàng hóa, thuê kế toán của doanh nghiệp, gửi tới các chứng từ cho kế toán thực hiện việc báo cáo thuế, quản lý con dấu của Công ty.
Võ Thị T có nhiệm vụ ký tên giám đốc Công ty vào các tờ khai hàng hóa nhập khẩu, các hợp đồng giao dịch mua bán, hóa đơn bán hàng và giấy tờ khai thuế hàng tháng của Công ty do T1 gửi tới.
Theo sổ sách của Công ty và tài liệu do Chi cục Thuế huyện T gửi tới: từ tháng 01/2013 đến tháng 6/2013, Công ty đã nhập khẩu 34.710.000 kg củ mì tươi và 13.370.021 kg mì lát khô, đã xuất bán hết. Tuy nhiên, Công ty mới kê khai thuế đối với 28.710.000 kg củ mì tươi và 3.050.457 kg mì lát khô. Số còn lại là 6.000.000 kg củ mì tươi và 10.319.564 kg mì lát khô đã xuất bán hết trong thời gian từ tháng 3/2013 đến tháng 6/2013 nhưng không ghi chép các khoản doanh thu bán hàng trên sổ kế toán, không lập hóa đơn bán hàng giao cho người mua, không kê khai nộp thuế theo hướng dẫn.
Ngày 23/7/2013, Chi cục Thuế huyện T kiểm tra tại Công ty phát hiện sai phạm nên ngày 22/10/2013 đã ban hành thông báo về việc hóa đơn giá trị gia tăng của Công ty Đ không còn giá trị sử dụng.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Các bị cáo Võ Thị T, Nguyễn Thị Mộng T1 phạm tội “trốn thuế”, xử phạt bị cáo T 02 năm tù, cho hưởng án treo. Xử phạt bị cáo T1 02 năm 06 tháng tù giam. Buộc 02 bị cáo liên đới nộp 3.381.453.707 đồng cho Chi cục Thuế huyện T, tỉnh Tây Ninh để nộp ngân sách nhà nước. Ngày 29/6/2017, các bị cáo kháng cáo cho rằng mình không phạm tội trốn thuế.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Công ty TNHH Đ thuộc loại hình công ty TNHH hai thành viên trở lên, là doanh nghiệp. Do đó Công ty Đ nếu có nợ thuế, trốn thuế thì Công ty có nghĩa vụ phải nộp nhưng cấp sơ thẩm không đưa Công ty Đ vào tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn dân sự là thiếu sót nghiêm trọng.
Về nợ thuế GTGT, cần điều tra làm rõ việc Công ty Đ đã bán hàng, kê khai, xuất hóa đơn bán hàng, báo cáo thuế vào tháng 8, 9 năm 2013 như cáo trạng cho rằng hai bị cáo đã hợp thức hóa ghi chép, xuất hóa đơn và báo cáo thuế phù hợp với hàng hóa xuất, nhập trong thời gian nộp hồ sơ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp. Công ty xuất hóa đơn GTGT vào tháng 8, 9 năm 2013 là đang còn giá trị.
Vì vậy, có việc hợp thức hóa hay phản ánh thực tiễn kinh doanh. Mặt khác khi xác định giá trị số tiền của số hàng mà công ty Đ vi phạm thì quá trình điều tra chưa điều tra làm rõ giá thực tiễn hàng hóa do công ty bán ra mà lấy giá do ngành thuế áp giá theo giá trung bình ở địa phương là không chính xác, bởi lẽ có nhiều doanh nghiệp đã xác nhận mì lát khô của công ty Đ giao theo hợp đồng là không bảo đảm chất lượng nên không nhận hàng hoặc giảm giá. Do đó, cấp sơ thẩm tính thuế không chính xác, cần phải điều tra làm rõ giá thực tiễn công ty Đ đã ban ra, làm cơ sở tính thuế GTGT.
Tòa án phúc thẩm tuyên: Hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho VKSND huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh để điều tra lại theo thủ tục chung.
2.4 Bản án số 57/2017/HS-ST ngày 14/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
Nội dung vụ án: Công ty TNHH Xây dựng B, do Trần Hùng T làm Giám đốc, kế toán là bà Phan Thị H (nhưng đã nghỉ việc từ ngày 29/12/2015). Trong thời gian kinh doanh đến ngày 16/12/2015, Công ty TNHH Xây dựng B đã nợ tiền thuế, tiền phạt và tiền nộp chậm số tiền 214.486.226 đồng.
Ngày 29/12/2015, Chi cục Thuế thành phố Đồng Hới đã ra quyết định cưỡng chế bằng biện pháp thông báo chứng từ không còn giá trị sử dụng đối với Công ty TNHH Xây dựng B. Thời gian cưỡng chế từ ngày 04/01/2016 đến ngày 03/01/2017. Mặc dù đã nhận được quyết định và thông báo của Chi cục Thuế thành phố Đồng Hới nhưng T vẫn sử dụng chứng từ đã bị cưỡng chế không còn giá trị sử dụng để xuất bán hàng hoá. Từ ngày 06/01/2016 đến ngày 28/11/2016, Công ty TNHH Xây dựng B đã sử dụng 13 chứng từ GTGT không còn giá trị sử dụng để xuất bán hàng hoá cho 08 Công ty, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh với tổng giá trị thanh toán là 8.161.427.842 đồng, giá trị hàng hoá dịch vụ 7.419.479.856 đồng, tiền thuế GTGT 741.947.986 đồng.
Ngày 04/5/2017 Cục thuế tỉnh Quảng Bình đã có Kết luận giám định, kết luận: Về thuế GTGT Công ty TNHH xây dựng B trốn thuế số tiền 573.617.255 đồng; thuế thu nhập doanh nghiệp Công ty THH xây dựng B không có hành vi trốn thuế thu nhập doanh nghiệp. Tổng số tiền trốn thuế của Công ty TNHH xây dựng B là 573.617.255 đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Mặc dù đã bị Chi cục Thuế thành phố Đồng Hới ra quyết định cưỡng chế bằng biện pháp thông báo chứng từ không còn giá trị sử dụng đối với Công ty TNHH Xây dựng B từ ngày 04/01/2016 đến ngày 03/01/2017; nhưng Trần Hùng T vẫn xuất 12 chứng từ GTGT cho các doanh nghiệp với tổng giá trị thanh toán 7.164.347.735 đồng (trong đó: giá trị tiền hàng 6.513.043.395 đồng, thuế GTGT 651.304.340 đồng) để trốn thuế với số tiền 573.617.255 đồng. Hành vi sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để bán hàng hóa của Trần Hùng T đã vi phạm vào tội “Trốn thuế”.
Tuy nhiên, xét thấy sau khi phạm tội bị cáo đã nhận thức được sai phạm của bản thân, tự nguyện nộp lại toàn bộ số tiền trốn thuế để khắc phục hậu quả; lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Xử phạt Trần Hùng T 24 tháng tù, cho hưởng án treo.
2.5 Bản án số 914/2017/HS-PT ngày 26/12/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
Nội dung vụ án: Từ năm 2010 đến tháng 5/2015, Phạm Thị L và Vũ Thị Hg đã bàn bạc, thống nhất mua lại Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, bộ con dấu và hóa đơn giá trị gia tăng (viết tắt là GTGT) của 05 công ty.
Để thực hiện hành vi mua bán trái phép hóa đơn GTGT và các chứng từ kèm theo tại các công ty trên, L và Hg tự làm các việc của kế toán 05 công ty trên gồm: Viết hóa đơn GTGT, soạn thảo hợp đồng kinh tế và các chứng từ kế toán kèm theo, thực hiện các giao dịch ngân hàng (nộp tiền mặt, chuyển khoản, rút tiền mặt), làm tờ khai thuế GTGT, bảng kê hóa đơn chứng từ hàng hóa, dịch vụ mua vào, bán ra các tháng và nộp cho đơn vị quản lý thuế.
Mặc dù 05 công ty trên không có bất kỳ hoạt động sản xuất, kinh doanh, trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ nhưng Phạm Thị L và Vũ Thị Hg đã ghi khống nội dung, bán trái phép hóa đơn GTGT và các chứng từ kèm theo có tổng số tiền hàng hóa, dịch vụ ghi khống chưa thuế.
Mặt khác Nguyễn Thị Thanh Th còn có Hành vi trốn thuế và mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước. Năm 2010 đến tháng 4/2013, Nguyễn Thị Thanh Th mua hàng hóa có hóa đơn GTGT và chứng từ kèm theo để kinh doanh theo hướng dẫn của Nhà nước.
Quá trình kinh doanh, Th nhận thấy việc chi phí vốn đầu vào cao nên kinh doanh thu lãi không đáng kể. Để tăng thu nhập và lãi xuất cao hơn, Th đã giảm chi phí đầu vào bằng cách mua hàng hóa không có hóa đơn GTGT, sau đó bán lại cho khách hàng.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Xử phạt các bị cáo Vũ Thị Hg, Phạm Thị L và Nguyễn Thị Thanh Th phạm tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước”; bị cáo Nguyễn Thị Thanh Th phạm tội “Trốn thuế”.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Từ năm 2010 đến tháng 5/2015, Phạm Thị L và Vũ Thị Hg đã bàn bạc, thống nhất mua lại giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, bộ con dấu và hóa đơn GTGT của 05 Công ty.
Sau đó cùng nhau mua bán trái phép tổng số 2.139 số hóa đơn GTGT kèm theo các chứng từ có tổng số tiền hàng hóa, dịch vụ ghi khống chưa thuế là 830.361.307 đồng; mua trái phép 292 số hóa đơn GTGT và các chứng từ kèm theo có tổng số tiền hàng hóa, dịch vụ ghi khống chưa thuế là 454.441.053.504 đồng.
Mặt khác, các bị cáo Nguyễn Thị Thanh Th, Vũ Thị Hg, Phạm Thị L còn mua bán trái phép nhiều số hóa đơn GTGT với số tiền hàng hóa, dịch vụ chưa thuế ghi khống trên hóa đơn là 359.602.266.996 đồng nhưng do không có bảng kê hóa đơn, chứng từ hàng hóa, dịch vụ mua vào nên đơn vị điều tra không xác định số tờ hóa đơn.
Sau khi trừ đi các chi phí, mỗi bị cáo thu lợi bất chính 475.560.000 đồng. Hành vi trốn thuế: Nguyễn Thị Thanh Th đã mua trái phép 175 số hóa đơn GTGT ghi khống nội dung hàng hóa, dịch vụ mua vào với tổng số tiền là 44.904.124.025 đồng của các Công ty Trần Hải, Diệu Hương, Hải Ngọc Việt, Vinh Khang từ Phạm Thị L với tổng số tiền là 853.750.000 đồng để khai báo trong bản kê khai hóa đơn, chứng từ hàng hóa, dịch vụ mua vào của Công ty An Thúy Nguyễn và đã được khấu trừ, chiếm đoạt số tiền thuế GTGT đầu vào là 4.490.412.402 đồng.
Hành vi mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ nộp ngân sách Nhà nước: Từ năm 2013 đến tháng 4/2016, Nguyễn Thị Thanh Th đã mua 107 số hóa đơn GTGT ghi khống nội dung hàng hóa, dịch vụ với tổng số tiền hàng hóa chưa thuế ghi trên hóa đơn là 43.538.330.591 đồng, tương ứng với số tiền thuế GTGT là 4.353.833.059 đồng từ Phạm Thị L của Công ty Trần Hải, Diệu Hương, Hải Ngọc Việt, Vinh Khang với tổng số tiền 565.990.000 đồng.
Sau đó bán lại cho một số người với giá 653.070.000 đồng để các Công ty cổ phần TM và đầu tư xây dựng Hùng Tiến, Hợp tác xã Công ty Hùng Thắng, Công ty TNHH đầu tư và phát triển thương mại Vũ Phong, Công ty cổ phần TRACO 18, Công ty TNHH dịch vụ hàng hải Nhật Thăng sử dụng số hóa đơn GTGT trên kê khai đầu vào. Nguyễn Thị Thanh Th đã thu lợi bất chính tổng số tiền là 87.080.000 đồng.
Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh Th 12 tháng tù về tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước”, 04 năm tù về tội “Trốn thuế”. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành là 05 (năm) năm tù. Xử phạt: Bị cáo Vũ Thị Hg 02 (hai) năm tù về tội mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước. Bị cáo Phạm Thị L 02 (hai) năm tù về tội mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước.
Xem thêm: Các yếu tố cấu thành của tội trốn thuế? Thông tin chi tiết
3. Giải đáp có liên quan
1. Trốn thuế có thể bị phạt tù không?
Câu trả lời là CÓ. Chủ thể có thể bị phạt tù nếu có hành vi đáp ứng các dấu hiệu cấu thành tội phạm theo hướng dẫn của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
2. Công ty Luật LVN Group có gửi tới dịch vụ tư vấn tội trốn thuế không?
Với nhiều năm kinh nghiệm và hỗ trợ thành công rất nhiều khách hàng, Công ty Luật LVN Group tự hào dịch vụ tư vấn tội trốn thuế với dịch vụ hỗ trợ tốt nhất cho khách hàng, nhanh chóng và tiết kiệm thời gian, chi phí.
3. Chi phí dịch vụ tư vấn tội trốn thuế của công ty Luật LVN Group là bao nhiêu?
Công ty Luật LVN Group luôn báo giá trọn gói, nghĩa là không phát sinh. Luôn đảm bảo hoàn thành công việc mà khách hàng yêu cầu; cam kết hoàn tiền nếu không thực hiện đúng, đủ, chính xác như những gì đã giao kết ban đầu. Điều này sẽ được quy định rõ trong hợp đồng ký kết.
Xem thêm: Mức phạt Tội trốn thuế hiện nay thế nào?
Việc nghiên cứu về tội trốn thuế sẽ giúp ích cho bạn đọc nắm thêm kiến thức về vấn đề này, đồng thời những vấn đề pháp lý xoay quanh nó cũng đã được chúng tôi trình bày như trên.
Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của LVN Group về Tổng hợp một số bản án về tội trốn thuế – Cập nhật năm 2023 gửi đến quý bạn đọc để cân nhắc. Trong quá trình nghiên cứu nếu như quý bạn đọc còn câu hỏi cần trả lời, quý bạn đọc vui lòng truy cập trang web: https: lvngroup.vn để được trao đổi, hướng dẫn cụ thể.