Hình ảnh minh họa
Để tạo cơ sở cho sự phát triển lành mạnh của quan hệ nuôi con nuôi và bảo đảm quản lý nhà nước về nuôi con nuôi, ngày 17/6/2010, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011 (Luật Nuôi con nuôi). Qua hơn mười năm triển khai thi hành Luật Nuôi con nuôi, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được thì vẫn còn một số bất cập, hạn chế mà các nhà lập pháp cần phải bổ sung, sửa đổi. Bài viết dưới đây của Công ty luật LVN Group sẽ tổng hợp những bất cập của luật nuôi con nuôi.
1. Bất cập về điều kiện nhận nuôi con nuôi
Theo Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định về điều kiện đối với người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự trọn vẹn;
b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;
d) Có tư cách đạo đức tốt.
Thứ nhất, việc xác định điều kiện kinh tế của người nhận nuôi có bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi được không thì rất khó xác định trên thực tiễn vì luật không có hướng dẫn tiêu chí cụ thể để đánh giá. Do mức thu nhập và mức sống thì không giống nhau khi xét ở thành thị và nông thôn, ở đồng bằng hay miền núi… Cùng một số tiền có thể nuôi một đứa trẻ ở nông thôn nhưng lại khó khi nuôi một đứa trẻ ở thành thị. Và thực tiễn vẫn đang diễn ra rằng nhiều hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi trong nước do Ủy ban nhân dân cấp xã (UBND) giải quyết chỉ có bản tự khai về hoàn cảnh gia đình mà không có xác nhận của đơn vị có thẩm quyền hoặc có trường hợp người nhận con nuôi không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế không bằng người cho con nuôi nhưng vẫn được nhận con nuôi dẫn đến việc giải quyết nuôi con nuôi không đúng quy định của pháp luật.
Tương tự với điều kiện về việc người nhận nuôi “có tư cách đạo đức tốt”. Hiện nay, Luật Nuôi con nuôi và các văn bản hướng dẫn thi hành không giải thích thế nào là “có tư cách đạo đức tốt”. Điều này dẫn đến các địa phương hiểu theo các cách khác nhau khi giải quyết thủ tục đăng ký nuôi con nuôi:
Cách hiểu thứ nhất, người nhận con nuôi “có tư cách đạo đức tốt” là người được xác nhận “không có án tích” (thể hiện thông qua Phiếu lý lịch tư pháp và phiếu này là giấy tờ pháp lý xác nhận người nhận con nuôi “có tư cách đạo đức tốt”).
Cách hiểu thứ hai, người nhận con nuôi “có tư cách đạo đức tốt” là người không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010
Cách hiểu thứ ba cho rằng, “có tư cách đạo đức tốt” là một khái niệm rộng, người không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 chỉ là một trong những trường hợp được xem là “có tư cách đạo đức tốt” và người nhận con nuôi “có tư cách đạo đức tốt” phải được hiểu bao gồm cả những người không thuộc một trong các trường hợp có các hành vi bị nghiêm cấm theo hướng dẫn của Luật Nuôi con nuôi.
Với cách hiểu khác nhau như trên đã dẫn đến thực trạng và mỗi địa phương vận dụng quy định của pháp luật theo cách riêng, không bảo đảm sự thống nhất trên phạm vi cả nước. Đây là một điểm bất cập của luật nuôi con nuôi mà rất thường gặp trong các quy định pháp luật, các nhà làm luật cần bổ sung văn bản hướng dẫn, định nghĩa cụ thể các khái niệm trên.
2. Bất cập quy định về các trường hợp không được nhận con nuôi
Bất cập tiếp theo của Luật Nuôi con nuôi được thể hiên qua điểm d khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi quy định trường hợp người “chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em” thì không được nhận con nuôi. Tuy nhiên, ngoài các tội danh đã liệt kê thì còn có một số tội phạm khác theo hướng dẫn của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) cũng có ảnh hưởng rất lớn tư cách đạo đức, tâm sinh lý của người nhận nuôi con nuôi như: Tội tổ chức tảo hôn (Điều 183); Tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi (Điều 296); Tội mua dâm người dưới 18 tuổi (Điều 329)…
Ở những mức độ nhất định thì những người phạm một trong các tội trên đây đã có sự xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền lợi hợp pháp của trẻ em. Vì thế, nếu để cho các trường hợp này nhận nuôi con nuôi sẽ dẫn đến hệ quả là không bảo đảm được lợi ích chính đáng của trẻ em được nhận nuôi.
3. Bất cập trong quy định về thành phần hồ sơ của người nhận con nuôi
Điều 17 Luật nhận nuôi con nuôi năm 2010 quy định trong hồ sơ người nhận nuôi con nuôi phải có “Phiếu lý lịch tư pháp”. Theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp năm 2009 thì nội dung ghi trong Phiếu lý lịch tư pháp là khác nhau: Phiếu lý lịch tư pháp số 1 chỉ ghi những án tích chưa được xóa (những án tích đã được xóa không ghi), không ghi thông tin về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã nếu cá nhân, đơn vị, tổ chức không có yêu cầu. Mặt khác, phiếu lý lịch tư pháp số 2 ghi trọn vẹn thông tin của cá nhân, bao gồm các thông tin về án tích (đối với người đã bị kết án thì ghi trọn vẹn án tích đã được xoá, thời gian được xoá án tích, án tích chưa được xóa, ngày, tháng, năm tuyên án, số bản án, Toà án đã tuyên bản án, tội danh, điều khoản luật được áp dụng, hình phạt chính, hình phạt bổ sung, nghĩa vụ dân sự trong bản án hình sự, án phí, tình trạng thi hành án) và thông tin về việc cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã.
Luật Nuôi con nuôi chỉ quy định chung là người nhận con nuôi phải có Phiếu lý lịch tư pháp mà không quy định cụ thể là Phiếu lý lịch tư pháp số 1 hay Phiếu lý lịch tư pháp số 2. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết thủ tục đăng ký nuôi con nuôi cho thấy, vẫn còn tình trạng UBND xã yêu cầu người nhận con nuôi gửi tới Phiếu lý lịch tư pháp số 2. Bất cập này của Luật Nuôi con nuôi gây ảnh hưởng đến quyền bí mật cá nhân của người nhận con nuôi.
4. Bất cập quy định chấm dứt việc nuôi con nuôi là người chưa thành niên
Theo quy định tại Điều 25 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì trường hợp con nuôi là người chưa thành niên thì căn cứ chấm dứt nuôi con nuôi là khi:
– Con nuôi là người chưa thành niên: bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ nuôi hoặc có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi;
– Cha mẹ nuôi của con nuôi chưa thành niên bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi;
– Vi phạm quy định tại Điều 13 của Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
Vậy thì trong trường hợp không may khi cha mẹ nuôi không còn đủ điều kiện nuôi dưỡng hoặc chết, có người khác muốn nhận người chưa thành niên làm con nuôi thì đơn vị có thẩm quyền không thể đăng ký nuôi con nuôi vì quan hệ nuôi con nuôi đã xác lập trước đây không thuộc các trường hợp được chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi theo hướng dẫn của pháp luật. Bất cập này của Luật Nuôi con nuôi làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người được nhận nuôi.
Trên đây là toàn bộ thông tin tổng hợp những bất cập của luật nuôi con nuôi của Công ty luật LVN Group. Trong quá trình cần nghiên cứu và áp dụng các quy định của Luật Nuôi con nuôi và các văn bản khác có liên quan, nếu như quý khách hàng còn có câu hỏi hay quan tâm và có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn và hỗ trợ pháp lý thì vui lòng liên hệ với chúng tôi qua các thông tin sau:
- Hotline: 1900.0191
- Zalo: 1900.0191
- Gmail: info@lvngroup.vn
- Website: lvngroup.vn