Phòng và chống tội phạm là vấn đề được quan tâm của tất cả các quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, khi tội phạm đã và đang là vấn nạn quốc gia, với các cách thức ngày càng trở nên tinh vi và nguy hiểm nhất thì việc phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm là nhiệm vụ cấp bách của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, đặc biệt là các đơn vị được giao nhiệm vụ chuyên trách về phòng, chống tội phạm (PCTP). Là đơn vị uỷ quyền dân cử, đơn vị quyền lực nhà nước cao nhất; đơn vị duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, Quốc hội nước ta có vai trò cần thiết đặc biệt trong công tác phòng chống tội phạm
1. Vai trò và phương thức PCTP của Quốc hội
Điều 63, Luật PCTN quy định: Quốc hội, các đơn vị của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, HĐND, đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND thông qua hoạt động giám sát có trách nhiệm phát hiện tham nhũng, kiến nghị xử lý theo hướng dẫn của pháp luật.
Vì vậy, vai trò cũng như trách nhiệm của Quốc hội trong công tác PCTN đã được pháp luật quy định.
Với vị trí, vai trò của mình, Quốc hội có nhiều công cụ và phương thức để sử dụng trong hoạt động PCTN, nhưng cần thiết và tập trung nhất là việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ: lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề cần thiết của đất nước.
Trong lĩnh vực lập pháp:
Là đơn vị duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, vai trò của Quốc hội trong PCTN được thể hiện trước hết ở việc thiết lập được hệ thống pháp luật đủ mạnh để phòng và chống tham nhũng. Trên thực tiễn, một hệ thống pháp luật đủ mạnh hàm ý không chỉ là những điều chỉnh trực tiếp các quy định về việc PCTN mà toàn bộ các quy định liên quan đến các hoạt động trong lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế của đất nước. Ví dụ, đơn vị lập pháp có thể ban hành các đạo luật thúc đẩy việc công khai, minh bạch, bảo đảm quyền tự do thông tin để tạo điều kiện thuận lợi cho giới truyền thông trong việc phát hiện, phanh phui các vụ việc tiêu cực; hoặc thông qua các đạo luật tăng cường năng lực giám sát của các thiết chế hiện hành; hoặc áp đặt những tiêu chuẩn xã hội tối thiểu như tiền lương, bình đẳng trong việc làm,… để giảm thiểu các hành vi dẫn đến nhũng nhiễu, tham nhũng. Trong công tác lập pháp, có hai nhóm biện pháp có tầm cần thiết hàng đầu trong đấu tranh PCTN, đó là:
– Pháp luật về chống tham nhũng, bao gồm các quy định về các biện pháp hình sự hóa, theo dõi, điều tra và trừng trị các hành vi tham nhũng;
– Pháp luật về mua sắm công với các quy định bảo đảm việc mua sắm công được tiến hành công khai, minh bạch, hiệu quả và chịu trách nhiệm.
Căn cứ hóa vai trò của Quốc hội trong lĩnh vực này, Luật PCTN năm 2005 sửa đổi năm 2007 và 2012 đã xác lập nguyên tắc, biện pháp, trách nhiệm cụ thể của Quốc hội trong PCTN như:
(1) Hằng năm xem xét báo cáo của Chính phủ về công tác PCTN trong phạm vi cả nước;
(2) Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát công tác PCTN trong phạm vi cả nước;
Để triển khai thực hiện công tác PCTN của Quốc hội, Luật này cũng quy định nhiệm vụ của các đơn vị của Quốc hội:
(a) Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát công tác phòng ngừa tham nhũng thuộc lĩnh vực do mình phụ trách;
(b) Ủy ban pháp luật, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng;
(c) Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về PCTN(5).
2. Trong lĩnh vực giám sát:
Giám sát tối cao của Quốc hội trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta được xem là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước, với mục đích cơ bản là phòng, chống sự tha hóa của quyền lực nhà nước – một loại hình của tham nhũng. Tuy nhiên, giám sát tối cao của Quốc hội trong PCTN không giống với các thiết chế khác trong bộ máy nhà nước ta.
Thứ nhất, PCTN trong hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội có tác dụng trên phạm vi quốc gia, ở tầm vĩ mô. Vì giám sát tối cao của Quốc hội theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện bởi toàn thể đại biểu Quốc hội tại phiên họp toàn thể của Quốc hội (Điều 1). Hiệu quả pháp lý của giám sát tối cao của Quốc hội được thể hiện trong Nghị quyết của kỳ họp Quốc hội, trong Nghị quyết giám sát chuyên đề hay trong Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn. Nội dung của các Nghị quyết này thường chỉ ra những thiếu sót, tồn tại và nguyên nhân của những thiếu sót tồn tại đó và đề ra các giải pháp khắc phục ở tầm vĩ mô, tầm phải sửa đổi chính sách, pháp luật. Ví dụ như, Nghị quyết xem xét báo cáo của Chính phủ về việc tổ chức thực hiện Luật PCTN và Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khoá XI; hay Nghị quyết của Quốc hội về công tác đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn nhà nước tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá XI. Các Nghị quyết này có vai trò như là những biện pháp PCTN ở tầm vĩ mô, có ý nghĩa chỉ đạo cuộc đấu tranh này.
Thứ hai, trong mối quan hệ về PCTN. Luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định hình phạt giám sát tối cao là: bỏ phiếu tín nhiệm đối với các cá nhân thuộc đối tượng giám sát của Quốc hội và thành lập Ủy ban điều tra lâm thời để điều tra về một vấn đề cần thiết. Cả hai hình phạt này đều được Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật hoạt động giám sát của Quốc hội quy định. Đây là những hình phạt có tác dụng PCTN một cách mạnh mẽ. Bởi đối tượng chịu sự tác động của những hình phạt này là những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, họ có cương vị cao trong bộ máy nhà nước. Tác động đến những người này có tác dụng phòng ngừa rộng lớn đến cả một ngành, một lĩnh vực trong việc nâng cao trách nhiệm, năng lực và ý thức chính trị. Việc áp dụng các hình phạt này được thực hiện theo thủ tục hoạt động Nghị trường vừa công khai, vừa dân chủ, nên có tác dụng rộng lớn trong dư luận xã hội, lấy được lòng tin của nhân dân trong cuộc đấu tranh PCTN. Đồng thời, các hình phạt này là hình phạt mang tính chất truy cứu trách nhiệm chính trị cùng với các hình phạt khác như hình phạt Hình sự, Hành chính, Dân sự… tạo thành một hệ thống các hình phạt bao quát trọn vẹn các cách thức, cách thức tác động đối với các đối tượng khác nhau.
Thứ ba, giám sát tối cao của Quốc hội là hoạt động theo thủ tục nghị trường. Tức là, các hoạt động của tập thể 500 đại biểu như: đọc, nghe, nghiên cứu khảo sát các loại báo cáo; phân tích, đánh giá, bình luận, phản biện, kết luận kiến nghị… tại các phiên họp toàn thể đại biểu Quốc hội. Vì thế, hoạt động giám sát của Quốc hội mang tính chất công khai, minh bạch và dân chủ. Trong những năm gần đây, tại kỳ họp Quốc hội, các hoạt động giám sát tối cao thường được truyền hình trực tiếp. Trong mối quan hệ với PCTN, giám sát tối cao của Quốc hội có tác dụng củng cố lòng tin của nhân dân, nâng cao ý thức công dân trong PCTN. Đồng thời, thông qua hoạt động giám sát công khai, truyền hình trực tiếp, nhân dân có dịp kiểm tra đánh giá năng lực, trình độ của đại biểu Quốc hội trong cuộc đấu tranh PCTN.
Có thể nói, giám sát tối cao của Quốc hội cả trên bình diện vĩ mô (khi sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật) đến cả bình diện truy cứu trách nhiệm chính trị đối với cá nhân có thẩm quyền cao trong bộ máy nhà nước có vai trò rất to lớn trong đấu tranh PCTN.
3. Trong lĩnh vực quyết định những vấn đề cần thiết của đất nước:
Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn quyết định các nội dung cần thiết liên quan đến chính sách kinh tế, ngân sách, dự toán ngân sách, từng loại thu, lĩnh vực chi và cơ cấu chi đầu tư phát triển, chi trả nợ, mức bội chi ngân sách nhà nước, các nguồn bù đắp bội chi. Bên cạnh đó, Quốc hội thảo luận và quyết định về chương trình, mục tiêu phát triển quốc gia; các chỉ tiêu, chính sách, giải pháp thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội; quyết định phương án phân bổ ngân sách phù hợp yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội; quyết định danh mục các chương trình dự án quốc gia, công trình xây dựng cơ bản cần thiết trong đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước. Đây là nhiệm vụ vô cùng cần thiết. Thông qua quá trình thực hiện nhiệm vụ (quyết định, phê chuẩn, giám sát việc thực hiện ngân sách…), Quốc hội góp phần tích cực vào công tác PCTN từ khâu đầu tiên của quá trình xác lập, phân bổ nguồn lực của đất nước, ngay từ khâu xác định mục tiêu, lựa chọn giải pháp kế hoạch cho nhiệm vụ phát triển đất nước, góp phần phòng và chống các hành vi sai trái của các tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm thực thi quyết định, nghị quyết của Quốc hội.
Xem thêm:
Thông tin chi tiết về truy nã tội phạm quốc tế
4. Giải đáp có liên quan
- Đẩy mạnh công tác hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm là gì?
– Tiếp tục tổ chức tham gia, ký kết, thực hiện các điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế về phòng, chống tội phạm, tương trợ tư pháp về hình sự… mà Việt Nam là thành viên.
– Thực hiện hiệu quả công tác đối ngoại, ngoại giao Nhân dân và hợp tác với các nước có chung đường biên giới đất liền ở cả 4 cấp (Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã) để chủ động phòng ngừa tội phạm từ sớm, từ xa và đấu tranh ngăn chặn hiệu quả với tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm trên không gian mạng, tội phạm ma túy, tội phạm mua bán người v.v…
- Ứng dụng khoa học công nghệ và huy động các nguồn lực phục vụ phòng, chống tội phạm được thể hiện thế nào?
– Tăng cường công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ phòng, chống tội phạm, nhất là quản lý thông tin, dữ liệu phục vụ hoạch định chính sách có liên quan đến công tác phòng, chống tội phạm trong giai đoạn mới.
– Ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước, đồng thời tổ chức huy động các nguồn lực hợp pháp khác phục vụ công tác phòng, chống tội phạm.
– Tổ chức quản lý, sử dụng hiệu quả Quỹ phòng, chống tội phạm trung ương và các địa phương, đảm bảo đúng quy định pháp luật; tổ chức vận động các tổ chức, cá nhân đóng góp tạo nguồn vốn cho Quỹ phòng, chống tội phạm trung ương; kịp thời có cách thức biểu dương, nhân rộng các tập thể, cá nhân tiêu biểu, xuất sắc trong phòng, chống tội phạm.
- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật trong công tác phòng, chống tội phạm là gì?
Rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo hành lang pháp lý phù hợp, trọn vẹn phục vụ công tác phòng, chống tội phạm; Nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, hướng dẫn thi hành pháp luật có liên quan đến công tác phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, bảo đảm các quy định mới được thi hành kịp thời, thống nhất, phù hợp với thực tiễn.
Trên đây là nội dung tư vấn của LVN Group liên quan đến vấn đề Vai trò, trách nhiệm của Quốc hội trong phòng chống tội phạm. Nếu có bất kỳ thắc mặc gì liên quan đến nội dung nội dung trình bày hoặc cần được hỗ trợ, tư vấn về các vấn đề pháp lý khác, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website: lvngroup.vn