Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản pháp lý có nội dung, tính chất của văn bản mang tính cá biệt, mang nội dung có tính chất quyền lực mà được lập, xác lập dựa trên yêu cầu vụ việc mà các chủ thể có thẩm quyền… Văn bản áp dụng pháp luật có vai trò rất to lớn trong việc các chủ thể tuân theo các quy phạm pháp luật. Bài viết dưới đây của Luật LVN Group sẽ chia sẻ một số thông tin cần thiết về văn bản áp dụng pháp luật tới các bạn.
1. Văn bản áp dụng pháp luật là gì?
Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản pháp lý cá biệt, mang tính quyền lực do các chủ thể có thẩm quyền (đơn vị nhà nước; nhà chức trách hoặc tổ chức xã hội được nhà nước trao quyền) ban hành trên cơ sở pháp luật, theo trình tự, thủ tục luật định nhằm điều chỉnh cá biệt đối với các tổ chức, cá nhân cụ thể trong những trường hợp cụ thể .
Ở góc độ khác thì văn bản áp dụng pháp luật là văn bản do chủ thể có thẩm quyền ban hành theo cách thức và trình tự thủ tục do pháp luật quy định, nhằm cá biệt hóa các quy phạm pháp luật thành những mệnh lệnh cụ thể, áp dụng một lần đối với cá nhân, tổ chức nhất định.
Văn bản áp dụng pháp luật là văn bản pháp luật vì dựa trên tiêu chí tính chất pháp lí thì văn bản pháp luật chia làm hai loại là văn bản áp dụng pháp luật và văn bản quy phạm pháp luật
2. Đặc điểm của văn bản áp dụng pháp luật
– Văn bản áp dụng pháp luật do đơn vị nhà nước, cá nhân, tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền áp dụng pháp luật ban hành và bảo đảm thực hiện trong trường hợp cần thiết bằng cưỡng chế nhà nước. Do đó có thể hiểu rằng, chủ thể nào được trao quyền thì chủ thể đó mới được phép ban hành văn bản áp dụng pháp luật.
– Được ban hành theo trình tự, thủ tục do luật định, cụ thể là: soạn thảo văn bản áp dụng pháp luật, trình,thông qua văn bản áp dụng pháp luật, ban hành văn bản áp dụng pháp luật.
– Văn bản áp dụng pháp luật tồn tại dưới cách thức cụ thể, nhất định là bản án, quyết định, lệnh,…
Theo đó, cách thức của một văn bản áp dụng pháp luật sẽ bao gồm tên gọi và thể thức cụ thể.
Thứ nhất, văn bản áp dụng pháp luật ban hành ra dưới dạng quy định do những đơn vị nhà nước, cá nhân hoặc tổ chức xã hội được nhà nước ủy quyền áp dụng pháp luật ban hành và được bảo đảm thực hiện trong trường hợp cần thiết bằng cưỡng chế nhà nước. Chỉ những chủ thể có có thẩm quyền về những nội dung trong văn bản do pháp luật quy định mới có thẩm quyền ban hành văn bản áp dụng pháp luật. Nếu văn bản áp dụng pháp luật mà nội dung ban hành xác định về nội dung được ban hành bởi cá nhân hay tổ chức mà pháp luật không quy định về thẩm quyền ban hành thuộc cá nhân hay đơn vị tổ chức ban hành đó thì văn bản áp dụng pháp luật đó không có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, văn bản áp dụng pháp luật được thể hiện trong những cách thức pháp lí dưới các dang cách thức nhất định nhất định. Một số ví dụ văn bản áp dụng pháp luật như : bản án, quyết định, lệnh,…
Thứ ba, cách thức của văn bản pháp luật bao gồm tên gọi và thể thức của văn bản pháp luật. Đối với văn bản áp dụng pháp luật thì tên gọi do pháp luật quy định, tùy thuộc vào tính chất công việc mà văn bản áp dụng pháp luật có tên gọi khác nhau, đồng thời thông qua tên gọi của văn bản áp dụng pháp luật ta có thể nhận biết được đơn vị nào có thẩm quyền ban hành văn bản áp dụng pháp luật đó.
Thứ tư, văn bản áp dụng pháp luật có tính chất áp dụng khá cá biệt, các văn bản áp dụng pháp luật thì xác định sẽ được áp dụng một lần đối với tổ chức, cá nhân. Khác với văn bản quy phạm pháp luật có nội dung chứa đựng các quy phạm pháp luật (các quy tắc xử sự chung) và các văn bản quy phạm pháp luật thì sẽ được áp dụng nhiều lần trên thực tiễn thì nội dung của văn bản áp dụng pháp luật lại chứa đựng các mệnh lệnh cụ thể đối với những đối tượng đã được xác định trong văn bản, được áp dụng một lần đối với tổ chức, cá nhân. Nội dung của văn bản áp dụng pháp luật chỉ rõ cụ thể cá nhân nào, tổ chức nào phải thực hiện hành vi gì.
Thứ năm, văn bản áp dụng pháp luật phải hợp pháp và phù hợp với thực tiễn, phải phù hợp với luật và dựa trên những quy định của pháp luật cụ thể. Bất cứ văn bản pháp luật nào được ban hành cũng đều phải đảm bảo tính hợp pháp và phù hợp với thực tiễn. Nội dung của văn bản áp dụng pháp luật được thể hiện ở việc các mệnh lệnh đưa ra phải phù hợp với các quy phạm pháp luật về nội dung và mục đích điều chỉnh, nếu không có sự phù hợp trên thì văn bản áp dụng pháp luật có thể bị đình chỉ hoặc hủy bỏ. Văn bản áp dụng pháp luật được ban hành không những phải hợp pháp mà còn phải phù hợp với thực tiễn, nếu không phù hợp với thực tiễn thì nó khó có thể được thi hành hoặc thi hành mà không mang lại kết quả cao.
3. Thẩm quyền ban hành văn bản áp dụng pháp luật
Văn bản áp dụng pháp luật được lập, ban hành thuộc về thẩm quyền quyết định của những cá nhân có thẩm quyền ban hành và đơn vị có thẩm quyền ban hành. Tuy nhiên trên thực tiễn pháp luật hiện nay thì có thể thấy những văn bản áp dụng pháp luật này thường do các cá nhân có thẩm quyền ban hành loại văn bản trên.
Có thể thấy rằng từ phân tích về thẩm quyền của văn bản áp dụng pháp luật trên thì đối với văn bản quy phạm pháp luật thì văn bản quy phạm pháp luật lại có nguyên tắc về mặt thẩm quyền ban hành thì xác định do các đơn vị Nhà nước có thẩm ra và đã được quy định cụ thể tại Chương II trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015. Ví dụ như Luật, nghị quyết của Quốc hội; Các lệnh, quyết định thì thẩm quyền do chủ tịch nước ban hành; Các nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ quốc hội được xác lập với các đoàn chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với nhau hoặc của Chính phủ xác lập với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với nhau; Các quyết định của Thủ tướng chính phủ ban hành.
4. Cơ sở ban hành, trình tự ban hành văn bản áp dụng pháp luật
– Cơ sở ban hành văn bản áp dụng pháp luật thông thường thì thường dựa vào văn bản áp dụng pháp luật của chủ thể có thẩm quyền ra quyết định hoặc thường dựa vào tối thiểu với một văn bản quy phạm pháp luật. Cần lưu ý rằng đối với văn bản áp dụng pháp luật thì đây được xác định là không phải nguồn của luật. Trên đây thì cũng sẽ thấy điểm khác biệt với văn bản quy phạm pháp luật vì văn bản quy phạm pháp luật thông thường thì lại dựa trên cơ sở của Hiến pháp, của các Luật hay cả đối với các văn bản quy phạm pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản thuộc cấp trên và văn bản quy phạm pháp luật được xác định chính là nguồn của luật.
– Trình tự ban hành văn bản áp dụng pháp luật hiện nay không có bất cứ một trình tự áp dụng theo luật định nào. Tuy nhiên thì xác định văn bản quy phạm pháp luật hiện nay lại được ban hành một cách trình tự và đúng thủ tục mà luật đã định cụ thể tại Luật xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
– Đối với vấn đề hủy bỏ, hay sửa đổi văn bản áp dụng pháp luật thì thường do các đơn vị tổ chức, hay cá nhân ban hành ra các văn bản áp dụng pháp luật này ra quyết định hủy bỏ hoặc sửa đổi.
5. Một số câu hỏi pháp lí liên quan
5.1 So sánh văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật
– Sự giống nhau
- Văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật đều là những văn bản có vai trò cần thiết trong nhà nước ta, đều được ban hành bởi những tổ chức cá nhân có thẩm quyền.
- Được nhà nước đảm bảo thực hiện bằng bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước
- Được ban hành theo những trình tự thủ tục do pháp luật quy định
- Văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật đều có hiệu lực bắt buộc đối với các các nhân hoặc tổ chức liên quan
- Được thể hiện dưới cách thức văn bản và dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội
– Sự khác nhau:
5.2 Phân tích thủ tục xây dựng văn bản áp dụng pháp luật
Bước 1: Xác định thẩm quyển giải quyết công việc cần áp dụng pháp luật và lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng pháp luật
– Thẩm quyển giải quyết công việc cần áp dụng pháp luật
Để bảo đảm văn bản áp dụng pháp luật ban hành hợp pháp và phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước, đòi hỏi chủ thể ban hành văn bản áp dụng pháp luật phải xác định chính xác những nội dung có liên quan đến hoạt động áp dụng pháp luật. Bởi vì, áp dụng pháp luật trước hết là hoạt động thực hiện pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền. Do vậy, trong quá trình áp dụng pháp luật chủ thể có thẩm quyền buộc phải ban hành các mệnh lệnh để giải quyết công việc phát sinh trong hoạt động quản lý.
Tính chất, nội dung các nhóm việc, loại việc phát sinh trong thực tiễn cần áp dụng pháp luật được đánh giá là cần thiết và cần thiết để xác định vấn đề cần áp dụng pháp luật là vấn đề nào, có liên quan đến phạm vi điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật nào. Theo đó, việc chỉ ra thẩm quyền giải quyết vấn đề bao gồm thẩm quyền nội dung và thẩm quyền cách thức thuộc chủ thể nào sẽ được xác lập dựa trên các quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể trực tiếp giải quyết vấn đề đó.
Thứ nhất, thẩm quyền về nội dung trong hoạt động áp dụng pháp luật .
Thứ hai, thẩm quyền về cách thức trong hoạt động áp dụng pháp luật.
– Lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng pháp luật
Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ của các sự việc phát sinh trong thực tiễn cần giải quyết bằng việc ban hành văn bản áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền xem xét việc lựa chọn văn bản quy phạm pháp luật hoặc quy phạm pháp luật điều chỉnh nội dung vấn đề để giải quyết. Theo đó, tương ứng với nội dung, tính chất của các nhóm công việc, chủ thể có thẩm quyền sẽ lựa chọn và sử dụng các quy phạm pháp luật phù hợp để áp dụng pháp luật. Ví dụ: Để giải quyết nội dung công việc liên quan đến hoạt động sắp xếp, tổ chức nhân sự trong các đơn vị nhà nước như: điều động, bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm… các chức vụ nhà nước, văn bản quy phạm pháp luật được lựa chọn để áp dụng pháp luật trong từng trường hợp là văn bản chứa đựng các quy phạm pháp luật tương ứng, liên quan trực tiếp đen vấn đề cần áp dụng. Căn cứ là văn bản quy phạm pháp luật có phạm vi điều chỉnh các vấn đề liên quan đến việc sử dụng và quản lý cán bộ, công chức, viên chức như Luật Cán bộ, công chức…
Bước 2: Soạn thảo văn bản áp dụng pháp luật
Nội dung chứa đựng trong văn bản áp dụng pháp luật thường cụ thể, đơn giản và được xác định dựa trên các quy phạm pháp luật tương ứng. Trên thực tiễn, việc soạn thảo văn bản áp dụng pháp luật được thực hiện bởi đơn vị cấp dưới trực tiếp của chủ thể ban hành văn bản, hoặc trong một số trường hợp do cán bộ, công chức trực tiếp soạn thảo văn bản khi đang thi hành công vụ theo thẩm quyền hoặc theo hướng dẫn của pháp luật. Việc xác định trách nhiệm soạn thảo văn bản áp dụng pháp luật thường căn cứ vào nội dung của văn bản. Để nhận diện nội dung các vấn đề cần áp dụng pháp luật, người soạn thảo thường căn cứ vào các loại việc phát sinh trong nội bộ đơn vị, tổ chức; hoặc căn cứ vào thẩm quyền giải quyết công việc theo hướng dẫn của pháp luật, đồng thời qua đó xác định cách thức soạn thảo văn bản áp dụng pháp luật.
Về nguyên tắc, nội dung công việc thuộc đơn vị, đơn vị cấp dưới của chủ thể áp dụng có trách nhiệm tham mưu giúp việc, sẽ do đơn vị, đơn vị đó soạn thảo văn bản căn cứ tính chất, nội dung của vấn đề cần áp dụng pháp luật (Xem: Điều 10 Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ quy định về công tác văn thư). Ví dụ: Để áp dụng pháp luật trong trường hợp bổ nhiệm nhân sự cấp phòng, thủ trưởng đơn vị sẽ trực tiếp giao phòng chức năng là phòng tổ chức cán bộ soạn thảo quyết định bổ nhiệm.
Khi soạn thảo văn bản, các chủ thể này phải xác định rõ cách thức cũng như nội dung của văn bản cần soạn thảo thông qua việc thu thập, xử lý các thông tin có liên quan (Xem: Khoản 2 Điều 10 Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ quy định về công tác văn thư). Từ đó xác định hướng lựa chọn các quy phạm pháp luật tương ứng để áp dụng pháp luật. Chẳng hạn, quyết định của chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh có nội dung điều động, luân chuyển cạn bộ cấp tỉnh sẽ do sở nội vụ soạn thảo. Khi đó, văn bản quy phạm pháp luật tương ứng được lựa chọn để áp dụng pháp luật là nghị định của Chính phủ quy định nội dung có liên quan đến việc quản lý và sử dụng cán bộ, công chức trong các đơn vị nhà nước hiện nay.
Nếu nội dung công việc cần áp dụng pháp luật có tính chất phức tạp và tác động đến nhiều đối tượng, nhiều đơn vị phát sinh bên ngoài đơn vị, tổ chức (môi trường, giao thông, đất đai, đầu tư, khiếu nại, tố cáo…) thì trong quá trình soạn thảo văn bản, đơn vị, đơn vị soạn thảo phải tiến hành những hoạt động sau:
– Tổ chức lấy ý kiến đối với cá nhân, tổ chức liên quan trực tiếp đến công việc áp dụng pháp luật.
– Xác minh, thu thập thông tin, chứng cứ liên quan đến công việc nhằm bảo đảm ban hành văn bản áp dụng pháp luật chính xác.
Bước 3: Trình, thông qua, kí và ban hành văn bản áp dụng pháp luật
Sau khi dự thảo văn bản ảp dụng pháp luật đã được soạn thảo, đơn vị, đơn vị soạn thảo sẽ trình trực tiếp đến đơn vị, người có thẩm quyền ban hành văn bản. Thông thường, việc trình văn bản áp dụng pháp luật có sự khác biệt đối với mỗi nhóm công việc khác nhau.
Thứ nhất, nếu văn bản giải quyết các vấn đề phát sinh trong nội bộ đơn vị, tổ chức thì chủ thể soạn thảo trực tiếp trình dự thảo văn bản đến chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản.
Thứ hai, nếu nội dung công việc áp dụng pháp luật đòi hỏi tính chất nhanh chóng, kịp thời hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết trực tiếp của công chức thì đơn vị, đơn vị trực tiếp trình văn bản mà không cần tờ trình, công văn để trình và công chức trực tiếp kí ban hành văn bản.
Nểu chủ thể ban hành văn bản đồng ý với dự thảo được trình, sẽ tiến hành thủ tục thông qua văn bản đó. Có hai cách thông qua văn bản áp dụng pháp luật đó là thông qua bởi tập thể (nếu đơn vị ban hành văn bản hoạt động theo nguyên tắc tập thể) và thông qua trực tiếp bởi cá nhân thủ trưởng (nếu đơn vị hoạt động theo nguyên tắc thủ trưởng cá nhân trực tiếp chịu trách nhiệm).
Dự thảo văn bản áp dụng pháp luật sau khi thông qua sẽ được xác lập giá trị pháp lý bằng chữ kí của cấp có thẩm quyền và con dấu họp thức của đơn vị ban hành văn bản. Văn bản áp dụng pháp luật được ban hành bởi đơn vị hoạt động theo nguyên tắc thủ trường tập thể hoặc thủ trưởng cá nhân. Do vậy, việc kí văn bản áp dụng pháp luật với các thể thức kí theo hướng dẫn hiện nay thường căn cứ vào tính chất loại việc cũng như vị trí của đơn vị ban hành văn bản. Theo đó, chức vụ của người kí luôn được ghi trước chữ kí và được trình bày theo các thể thức nhất định, phù hợp với cách thức thông qua và thẩm quyền của người kí văn bản, cụ thể là:
– Đối với đơn vị, tổ chức công tác theo chế độ thủ trưởng, người đứng đầu đơn vị, tổ chức có thẩm quyền kí tất cả các văn bản của đơn vị, tổ chức. Mặt khác, người đứng đầu đơn vị, tổ chức có thể giao cho cấp phó của mình kí thay (KT.) các văn bản áp dụng pháp luật thuộc lĩnh vực được phân công phụ trách và một số văn bản thuộc thẩm quyền của người đứng đầu. Cấp phó kí thay chịu trách nhiệm trước người đứng đầu đơn vị, tổ chức và trước pháp luật.
– Đối với đơn vị nhà nước hoạt động theo chế độ tập thể, việc kí các văn bản có nội dung cần thiết thuộc thẩm quyền giải quyết phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, người đứng đầu đơn vị thay mặt (TM.) tập thể lãnh đạo kí các văn bản của đơn vị mình, cấp phó của người đứng đầu và các thành viên giữ chức vụ lãnh đạo khác được thay mặt tập thể, kí thay người đứng đầu đơn vị những văn bản thuộc phạm vi được ủy quyền và những văn bản thuộc các lĩnh vực được phân công phụ trách (Xem: Điều 13 Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ quy định về công tác văn thư).
Mặt khác, người đứng đầu đơn vị có thể giao cho chánh văn phòng, trưởng phòng hành chính, trưởng một số đơn vị kí thừa lệnh (TL.) đối với những văn bản có nội dung ít cần thiết. Việc giao kí thừa lệnh phải được quy định cụ thể trong quy chế công tác hoặc quy chế công tác văn thư của đơn vị, tổ chức (Xem: Khoản 3 Điều 13, Điều 10 Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ quy định về công tác văn thư).
Trên đây là một số chia sẻ về văn bản áp dụng pháp luật. Trong những năm vừa qua, Luật LVN Group luôn là đơn vị tiên phong trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý. Công ty chúng tôi với đội ngũ chuyên viên chuyên nghiệp luôn sẵn lòng hỗ trợ và đáp ứng tối đa những yêu cầu của quý khách. Trong quá trình nghiên cứu nếu như quý khách hàng còn câu hỏi hay quan tâm và có nhu cầu sử dụng dịch vụ vui lòng liên hệ với chúng tôi để được trả lời nhanh và chính xác nhất theo:
Email: info@lvngroup.vn
Hotline: 1900.0191
Zalo: 1900.0191