Vật quyền là quyền thực hiện trực tiếp trên vật và có tác dụng mang lại cho người có quyền toàn bộ hoặc một phần tiện ích kinh tế của vật đó. Vật quyền được phân thành hai loại là vật quyền chính và vật quyền phụ. Bài viết sau đây, chúng ta sẽ cùng làm rõ hơn về vật quyền bảo đảm. Mời quý bạn đọc cùng theo dõi nội dung trình bày sau đây:
Vật quyền bảo đảm
1. Vật quyền bảo đảm là gì?
Vật quyền bảo đảm là một khái niệm của hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil law), được dùng để chỉ quyền trực tiếp và ngay tức khắc của bên nhận bảo đảm trên một tài sản.
Quan hệ vật quyền bảo đảm được xác lập trên nguyên tắc giải quyết mối quan hệ giữa hai yếu tố: (i) chủ thể của quyền (con người) và (ii) đối tượng của quyền (tài sản).
Theo đó, quan hệ vật quyền bảo đảm cho phép chủ thể có quyền “áp đặt” quyền của mình lên tài sản, mà không cần đến sự đồng ý hoặc không đồng ý của chủ thể khác. Đây chính là sự khác biệt cơ bản giữa vật quyền bảo đảm nói riêng và vật quyền nói chung với quan hệ trái quyền (trong quan hệ trái quyền thì quyền của chủ thế này, đồng thời là nghĩa vụ của chủ thể khác).
2. Đặc điểm của vật quyền đảm bảo
Thứ nhất, về khía cạnh kỹ thuật lập pháp thì vật quyền bảo đảm phải được quy định trong văn bản Luật. Đây không chỉ là nguyên tắc đơn thuần xuất phát từ kỹ thuật lập pháp, mà “đường sau” nguyên tắc này là một triết lý đã được pháp luật nhiều nước thừa nhận, đó là: Do vật quyền bảo đảm “chống” lại các quyền của chủ thể khác, trong đó có quyền của chủ sở hữu tài sản nên để bảo vệ quyền sở hữu, hạn chế sự “tùy tiện” của các bên trong thỏa thuận áp dụng vật quyền bảo đảm thì những loại quyền nào được xác định là vật quyền bảo đảm phải được Nghị viện (Quốc hội) thông qua trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất (văn bản Luật). Vì vậy, nếu như tự do thỏa thuận, thể hiện ý chí là nguyên tắc áp dụng trong các quan hệ trái quyền, thì vật quyền bảo đảm lại được “hạn chế” bởi các quy định của pháp luật.
Thứ hai, vật quyền bảo đảm cho phép chủ thể thực hiện quyền của mình đối với tài sản ngay cả khi tài sản đó đang thuộc sự chiếm hữu của chủ thể khác (tạm gọi là quyền theo đuổi). Vì vậy, giống như các vật quyền khác, vật quyền bảo đảm cho phép người có quyền đối vật được phép thực hiện quyền của mình trên vật bất kể vật đang nằm trong tay ai. Ví dụ: Bên nhận thế chấp có quyền yêu cầu người mua, người nhận tặng cho tài sản thế chấp… phải giao tài sản cho mình để xử lý thu hồi nợ. Nguyên tắc này không chỉ bảo vệ người có quyền đối vật, mà còn khuyến khích tài sản bảo đảm tham gia các giao dịch dân sự, thương mại, cũng như xác định cơ chế pháp lý ràng buộc trách nhiệm của người mua, người nhận tặng cho tài sản…
Thứ ba, vật quyền bảo đảm cho phép người có quyền thực hiện quyền của mình đối với tài sản bảo đảm trước những chủ thể khác đã xác lập vật quyền bảo đảm sau mình (tạm gọi là quyền ưu tiên). Điều này có nghĩa, trong trường hợp nhiều người có quyền đối vật cùng loại trên cùng một tài sản, thì người có quyền đối vật được xác lập trước có quyền ưu tiên so với những người có quyền đối vật được xác lập sau.
Thứ tư, vật quyền bảo đảm cho phép bên có quyền “chống lại” các chủ thể khác có liên quan đến tài sản bảo đảm (tạm gọi là quyền đối kháng). Điều này có nghĩa, khi vật quyền bảo đảm đã được công khai với bên thứ ba (thông qua cơ chế đăng ký hoặc chiếm giữ tài sản) thì quyền ưu tiên chính thức được xác lập lên tài sản, mà không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể nhận bảo đảm sau. Vì vậy, khi vật quyền đã được xác lập hợp pháp thì tất cả các chủ thể, dù với tư cách nào cũng phải tôn trọng quyền năng của người có vật quyền đã được xác lập hợp pháp, phù hợp với các điều kiện do pháp luật quy định.
Thứ năm, pháp luật các nước thường quy định về vật quyền bảo đảm mang tính truyền thống là: cầm cố và thế chấp. Mặt khác, pháp luật một số nước cũng có những quy định đặc thù đối với vật quyền bảo đảm, như Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Liên bang Đức quy định về “nợ điền địa” như một loại vật quyền bảo đảm.
3. Một số hạn chế trong các quy định của pháp luật khi đối chiếu với các nguyên lý về vật quyền bảo đảm
3.1. Chưa triệt để thừa nhận các nguyên tắc của vật quyền bảo đảm
Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy, do Bộ luật Dân sự Việt Nam tiếp cận vật quyền bảo đảm từ giác độ hợp đồng (trái vụ) nên các nguyên tắc pháp lý gắn liền vật quyền bảo đảm (ví dụ như: quyền theo đuổi hoặc quyền ưu tiên) chưa được quy định cụ thể và trọn vẹn. Đánh giá khách quan thì quy định như Bộ luật Dân sự hiện hành có ưu điểm là dễ hiểu, dễ áp dụng trong đời sống, nhưng điểm hạn chế nhất là hiệu quả thực thi các quy định về bảo vệ bên cho vay có bảo đảm còn thấp, thiếu triệt để. Kết quả rà soát cho thấy, quyền của bên cho vay có bảo đảm (chủ thể có quyền trong quan hệ vật quyền) phụ thuộc nhiều vào ý chí, trách nhiệm của bên vay (chủ sở hữu tài sản). Thực tiễn giải quyết tranh chấp của Tòa án thời gian qua cho thấy, pháp luật nội dung (Bộ luật Dân sự) với các quy định về biện pháp bảo đảm mới chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản về quyền, nghĩa vụ của các bên được thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm, còn những vấn đề có tính xuyên suốt, cần thiết về vật quyền bảo đảm vẫn chưa được quy định để làm nền tảng cho sự vận hành của chế định vật quyền bảo đảm như Bộ luật Dân sự của một số quốc gia thuộc hệ thống luật Civil law.
3.2. Chưa tạo hành lang pháp lý an toàn để khai thác tối đa giá trị kinh tế của tài sản bảo đảm
Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì bên thế chấp tài sản có quyền “bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nếu được bên nhận thế chấp đồng ý” (khoản 4 Điều 349). Do vậy, việc chuyển dịch tài sản thế chấp phải được sự đồng ý của bên nhận thế chấp. Quy định nêu trên là một giải pháp nhằm bảo vệ quyền lợi của bên nhận thế chấp, song trên thực tiễn khi bên thế chấp chuyển dịch quyền sở hữu tài sản thế chấp thì bên nhận thế chấp khó có thể “truy đòi” tài sản thế chấp do pháp luật thiếu cơ chế pháp lý để thực thi hiệu quả. Trong khi đó, quy định có tính chất “điều kiện” của Bộ luật Dân sự rất dễ dẫn đến một hệ quả không mong muốn là đã hạn chế khả năng khai thác giá trị kinh tế của tài sản. Pháp luật các nước trên cơ sở tôn trọng quyền theo đuổi của chủ thể có quyền đối vật đã giải quyết triệt để vấn đề nêu trên khi quy định cho phép chủ sở hữu tài sản được quyền chuyển dịch tài sản cho người thứ ba, song trong trường hợp bên thế chấp không thực hiện đúng nghĩa vụ bảo đảm thì bên nhận thế chấp vẫn được quyền tiếp cận, thu hồi và xử lý tài sản đó, trừ trường hợp giữa các bên có thỏa thuận khác.
3.3. Vướng mắc trong việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa bên nhận cầm cố tài sản (bên nhận thế chấp tài sản) với bên nhận bảo lãnh và quan hệ giữa bên nhận bảo đảm với các chủ thể khác
Theo quy định tại khoản 2 Điều 325 Bộ luật dân sự năm 2005 thì “t rong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà có giao dịch bảo đảm có đăng ký, có giao dịch bảo đảm không đăng ký thì giao dịch bảo đảm có đăng ký được ưu tiên thanh toán”. Nhìn từ giác độ khoa học pháp lý thì quan hệ bảo lãnh phải được hiểu là quan hệ trái quyền và không thuộc đối tượng đăng ký như các vật quyền bảo đảm khác. Tuy nhiên, do Bộ luật dân sự Việt Nam xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa giao dịch bảo đảm bằng tài sản (ví dụ như: cầm cố, thế chấp) với bảo lãnh theo tiêu chí “đăng ký”, trong khi hợp đồng bảo lãnh không thuộc diện đăng ký nên chưa giải quyết triệt để thứ tự ưu tiên giữa bên nhận bảo lãnh với bên nhận thế chấp (nhận cầm cố).
Mặt khác, Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2005 mới chỉ giải quyết vấn đề thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các giao dịch bảo đảm, chưa giải quyết vấn đề xác địnhthứ tự ưu tiên thanh toán từ số tiền thu được do xử lý tài sản bảo đảm giữa bên nhận bảo đảm với chủ thể khác có quyền và lợi ích liên quan đến tài sản bảo đảm, (ví dụ: người được thi hành án, Nhà nước trong trường hợp doanh nghiệp nợ thuế) hay với các quyền ưu tiên khác liên quan đến tài sản bảo đảm (ví dụ: quyền của người lao động trong doanh nghiệp; quyền của người cho vay tiền mua tài sản…). Đồng thời, Điều 325 Bộ luật dân sự năm 2005 mới chỉ đề cập đến thuật ngữ “thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các giao dịch bảo đảm”. Theo chúng tôi, thuật ngữ nêu trên chưa phù hợp, vì nội hàm của khái niệm “thứ tự ưu tiên thanh toán” thường chỉ nhằm xác định giữa các bên cùng nhận bảo đảm bằng một tài sản khi xử lý tài sản bảo đảm, mà chưa bao hàm trọn vẹn và toàn diện như khái niệm “quyền ưu tiên” hiện đang được pháp luật nhiều nước quy định.
3.4. Vướng mắc trong các quy định về xác định thời gian phát sinh giá trị pháp lý đối với người thứ ba của hợp đồng cầm cố tài sản và đối tượng của hợp đồng cầm cố tài sản
Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định “việc cầm cố tài sản có hiệu lực kể từ thời gian chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố” (Điều 328), nhưng hợp đồng cầm cố nếu chưa đăng ký thì chưa phát sinh giá trị pháp lý đối với người thứ ba. Vấn đề đặt ra là khi đã “chuyển giao” vật thì có cần thiết phải “đăng ký” để phát sinh giá trị pháp lý đối với người thứ ba không? Về nguyên lý, nếu “đăng ký” mới phát sinh giá trị pháp lý đối với người thứ ba thì việc chuyển giao với ý nghĩa, mục đích là nhằm công khai hóa thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản đối với người thứ ba sẽ phần nào bị giảm ý nghĩa pháp lý. Tuy nhiên, nếu không quy định về đăng ký cầm cố thì giải quyết thứ tự ưu tiên thế nào trong trường hợp tài sản vừa được dùng để cầm cố, vừa được dùng để thế chấp. Mặt khác, theo hướng dẫn của Bộ luật dân sự năm 2005 thì tài sản được dùng để cầm cố có thể là động sản hoặc bất động sản, nhưng phải là “vật”. Điều này có nghĩa các bên không được cầm cố quyền tài sản. Tuy nhiên, cân nhắc Điều 362 Bộ luật Dân sự Nhật Bản thì “quyền tài sản có thể trở thành đối tượng của cầm cố”. Quy định của Bộ luật dân sự Nhật Bản liệu có phù hợp với bản chất “chuyển giao” trong biện pháp cầm cố không? Cơ chế nào để công khai hóa thông tin với người thứ ba trong trường hợp tài sản bảo đảm là “quyền tài sản”?
3.5. Vướng mắc trong quy định về thời gian có hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất
Luật Đất đai 2003 không có quy định về thời gian có hiệu lực của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, mà vấn đề này được quy định trong Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai. Theo quy định của khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP, thì: “…hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời gian đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.” Trong khi đó, theo hướng dẫn của Bộ luật dân sự, thời gian đăng ký được tính là thời gian chuyển quyền sử dụng đất (khoản 1 Điều 168, khoản 2 Điều 439 và Điều 692), còn thời gian có hiệu lực của hợp đồng được xác định là thời gian giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác (Điều 405). Việc Nghị định số 181/2004/NĐ-CP quy định hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực từ thời gian đăng ký có thể được xem là trường hợp pháp luật có quy định khácquy định tại Điều 405 Bộ luật dân sự 2005. Tuy nhiên, với quy định hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực từ thời gian đăng ký, Nghị định số 181/2004/NĐ-CP đã đồng nhất thời gian có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm với thời gian có hiệu lực của vật quyền bảo đảm (thời gian đăng ký). Điều này chưa phù hợp với lý thuyết về đăng ký vật quyền và lý thuyết về trái quyền, cũng như thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tại Việt Nam.
3.6. Chưa đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể (bao gồm cả Nhà nước) khi giải quyết những lợi ích liên quan đến tài sản bảo đảm
Bộ luật dân sự năm 2005 đã có những quy định nhằm xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, cụ thể là căn cứ vào thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm (đối với trường hợp giao dịch bảo đảm có đăng ký) hoặc thứ tự xác lập giao dịch bảo đảm (đối với trường hợp giao dịch bảo đảm không có đăng ký). Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp quyền và lợi ích của bên nhận bảo đảm vẫn chưa được bảo vệ thỏa đáng, ví dụ như: tài sản bảo đảm bị áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời thì đơn vị nhà nước có thẩm quyền có cần phải nghiên cứu thông tin hoặc đăng ký tại đơn vị đăng ký giao dịch bảo đảm để công khai hóa các thông tin liên quan đến tài sản đó không? Nếu không đăng ký để công khai hóa thì người dân sẽ không có trọn vẹn thông tin cần thiết phục vụ cho việc thiết lập và thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản. Theo chúng tôi, tính minh bạch về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm càng rõ ràng thì càng phục vụ cho sự vận động an toàn của các giao dịch trên thị trường. Mặt khác, “bên thứ ba” có bao gồm cả các đơn vị công quyền không? Nếu xác định “bên thứ ba” bao gồm cả các đơn vị công quyền thì thứ tự thanh toán giữa nhà nước và các tổ chức, cá nhân phải được giải quyết trên cơ sở bình đẳng về mặt lợi ích liên quan đến tài sản bảo đảm. Về vấn đề này, pháp luật một số nước trên thế giới mà chúng tôi được nghiên cứu quy định bên thứ ba được hiểu bao gồm cả Nhà nước và lợi ích của Nhà nước liên quan đến tài sản bảo đảm chỉ được bảo vệ tuyệt đối trong trường hợp tài sản bị tịch thu sung công quỹ do hành vi vi phạm pháp luật hình sự của người có quyền sở hữu, chiếm hữu và sử dụng hợp pháp tài sản.
Với việc pháp luật quy định rõ ràng, chính xác và công bằng quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể (bao gồm cả Nhà nước) có ý nghĩa cần thiết nhằm đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các giao dịch trong xã hội, nhất là trong bối cảnh chúng ta đang từng bước thiết lập một xã hội dân sự.
3.7. Chưa thực sự tạo cơ chế thuận lợi cho chủ nợ (bên cho vay) có bảo đảm thực thi tốt nhất quyền năng trên thực tiễn
Thực tiễn cho thấy, trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm trong thời gian nhanh nhất, ít tốn kém nhất nhưng vẫn phải khách quan, trung thực. Mặt khác, cần phải có sự thay đổi về quan điểm lập pháp khi điều chỉnh hành vi của các bên ký kết hợp đồng bảo đảm, đó là: áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn đối với những tranh chấp liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm; tăng cường cơ chế, biện pháp để bên nhận bảo đảm dễ dàng tiếp cận và xử lý tài sản bảo đảm hoặc chỉ cần chứng minh 02 chứng cứ là: (i) hợp đồng bảo đảm hợp pháp và (ii) bên vay không có khả năng trả nợ theo đúng cam kết, thì bên cho vay có bảo đảm hoàn toàn có quyền xử lý tài sản bảo đảm theo như thỏa thuận hoặc theo pháp luật quy định. Hiện nay, “có 56 nước áp dụng quy trình tố tụng giản lược này, nhờ đó thời gian để tiến hành xử lý tài sản thế chấp ở những nước này ít hơn 50% so với những nước dùng các biện pháp xét xử khác”.
Trên đây là những nội dung về vật quyền bảo đảm mà Luật LVN Group đã chia sẻ đến quý bạn đọc. Mọi thông tin hay câu hỏi có thể liên hệ với chúng tôi để được đội ngũ chuyên viên hỗ trợ kịp thời. Công ty Luật LVN Group tự hào là đơn vị hàng đầu hỗ trợ mọi vấn đề liên quan đến pháp lý, tư vấn pháp luật, thủ tục giấy tờ cho khách hàng là cá nhân và doanh nghiệp.. Công ty Luật LVN Group – Đồng hành pháp lý cùng bạn.