Kiện vật quyền và kiện trái quyền là hai thuật ngữ được sử dụng liên quan đến quyền sở hữu trong pháp luật dân sự. Vật quyền là quyền trên vật, còn trái quyền là quyền đối với vật của người khác. Luật LVN Group xin gửi đến quý bạn đọc nội dung trình bày: “Vật quyền và trái quyền trong pháp luật dân sự [2023]”.
1. Vật quyền
1.1. Khái niệm
Theo cuốn từ điển Luật học – Bộ tư pháp thì vật quyền là quyền trực tiếp trên vật và có tác dụng mang lại cho người có quyền toàn bộ hoặc một phần tiện ích kinh tế đó.
Và cũng theo nội dung giải thích về vật quyền thì vật quyền bao gồm hai loại vật quyền chính và vật quyền phụ:
+ Vật quyền chính là những vật mà cho phép con người có quyền thụ hưởng các vật liên quan và thực hiện tác động một cách trực tiếp lên vật ví dụ: quyền sở hữu tài sản,..
+Vật quyền phụ: là những vật quyền được thực hiện không phải nhằm thụ hưởng tiện ích vật chất của vật liên quan mà nhằm khai thác giá trị tiền tệ của vật đó. Các quyền này gắn với quyền chủ nợ mà theo luật nó là giao dịch pàm phát sinh các quyền bảo đảm đối với vật cho việc thực hiện nghĩa vụ.
Vật quyền được hiểu theo hai nghĩa khác nhau:
– Theo nghĩa chủ quan thì vật quyền là quyền của một chủ thể nhất định đối với một tài sản
Theo nghĩa này thì vật quyền là quyền đối với vật, khác với trái quyền là quyền của một người yêu cầu một người khác thực hiện hoặc không thực hiện một hành vi nhất định (quyền đối nhân).
– Theo nghĩa khách quan thì vật quyền là toàn bộ các quy phạm pháp luật quy định về vật với tư cách là đối tượng của vật quyền, nội dung của các loại vật quyền, căn cứ phát sinh, chấm dứt các loại vật quyền, nguyên tắc thực hiện, bảo vệ vật quyền, các hạn chế mà người có vật quyền phải tuân thủ khi thực hiện các quyền năng của mình,… Thừa kế những nội dung này thì Bộ luật dân sự 2015 có những quy định về vật quyền như sau
1.2. Nội dung của vật quyền trong pháp luật dân sự
Quyền sở hữu trong pháp luật dân sự:
Theo quy định tại điều 158 Bộ luật dân sự 2015 thì quyền sở hữu được quy định bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu
Thứ nhất, quyền chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản (khoản 1 Điều 179 Bộ luật dân sự 2015). Và việc xác định chiếm hữu còn được xác định dựa trên việc nắm giữ tài sản của chủ sở hữu, do đó, chiếm hữu được xác định gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu.
- Chiếm hữu của chủ sở hữu là việc nắm giữ chi phối tài sản gồm chủ sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu quyền, người có quyền chiếm giữ tài sản dựa trên cơ sở một giao dịch hợp pháp, người được nhà nước giao quyền chiếm hữu thông qua một quyết định có hiệu lực hoặc bản án có hiệu lực của tòa án. Các chủ thể nắm giữ chi phối tài sản thông qua việc trực tiếp tác động vào tài sản nhằm duy trì tài sản theo ý chí của mình hoặc thông qua hành vi của người khác
- Chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu được Bộ luật dân sự quy định tại điều 228 đến điều 233 và điều 236 là căn cứ để các lập quyền sở hữu theo thời hiệu. Nếu trong trường hợp chiếm hữu khác của chủ thể không phải là chủ sở hữu không thuộc nội dung quy định tại các điều luật này thì không được pháp luật bảo vệ.
Căn cứ vào quyền đối với tài sản thì quyền chiếm hữu trong quan hệ sở hữu tài sản còn được chia làm chiếm hữu ngay tình và chiếm hữu không ngay tình
- Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu hoặc có căn cứ để chứng mình về việc người chuyển giao tài sản cho mình là chủ sở hữu hoặc có căn cứ tin rằng người chuyển giao tài sản cho mình có thẩm quyền chuyển giao
- Chiếm hữu không ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có đủ căn cứ để biết việc chiếm hữu của mình để biết việc chiếm hữu của mình không tuân thủ quy định của pháp luật, ví dụ: trộm cắp, cướp,.. Trong trường hợp này, người chiếm hữu phải biết việc chiếm hữu của mình có căn cứ pháp luật được không. Trường hợp này áp dụng đối với việc chiếm hữu là tài sản có đăng kí quyền sở hữu.
Thứ hai, quyền sử dụng. Quyền sử dụng là quyền thực hiện các hành vi khai thác công dụng hoa lợi lợi tức phát sinh từ tài sản. Việc khai thác ở đây có thể là khai thác công dụng, tính năng của tài sản nhằm đáp ứng lợi ích vật chất, tinh thần của chủ thể trong đời sống kinh tế -xã hội.
Quyền sử dụng có thể là đối tượng trong các giao dịch dân sự, do đó căn cứ vào chủ thể sử dụng tài sản thì chúng ta có quyền sử dụng của chủ sở hữu và quyền sử dụng không phải là chủ sở hữu. Quyền sử dụng của chủ sở hữu là việc chủ sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp khai thác tài sản của mình và phải đảm bảo việc khai thắc tài sản không làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia dân tộc. Còn quyền sử dụng của người không phải là chủ sở hữu được xác định dựa theo thỏa thuận của chủ sở hữu với người khác có thể thông qua các loại giao dịch thuê khoán, mượn tài sản,…
Thứ ba, quyền định đoạt. Quyền định đoạt là quyền chuyển giao quyền sở hữu tài sản, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng hoặc tiêu hủy tài sản. Hay nói cách khác quyền định đoạt là quyền định đoạt đối với số phận của tài sản về tính pháp lý hoặc thực tiễn. Quyền định đoạt được thực hiện thông qua các nội dung sau:
+ Quyền định đoạt là việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác.Chủ thể có quyền định đoạt gồm chủ sở hữu tài sản, người được chủ sở hữu ủy quyền hoặc người có quyền trên cơ sở quyết định của tòa án
+ Quyền từ bỏ tài sản là việc chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu theo hướng dẫn theo điều 239 Bộ luật dân sự 2015
+ Quyền định đoạt thể hiện qua việc tiêu dùng đối với tài sản nhằm khai thác công dụng của tài sản và đem lại lợi ích cho con người.
+ Quyền định đoạt thể hiện qua việc tiêu hủy tài sản, là việc của chủ sở hữu nhằm mục đích chấm dứt sự tồn tại của tài sản, chấm dứt, phá bỏ mọi công dụng và tính năng của tài sản.
Trong quá trình thực hiện quyền định đoạt của tài sản, chủ sở hữu có thể tự do thực hiện quyền định đoạt của mình đối với tài sản đó thông qua việc chuyển giao quyền sở hữu thông qua việc mua bán, chuyển nhượng, tặng cho,…Tuy nhiên việc tự đó cũng phải được thực hiện trong “khuôn khổ” do luật quy định.
Các quyền khác đối với tài sản:
Là quyền của chủ thể trực tiếp nắm giữ, chi phối tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác. Căn cứ quyền khác đối với tài sản gồm:
Một là, quyền đối với bất động sản liền kề. Theo đó, theo hướng dẫn tại điều 245 Bộ luật lao động 2015 thì
“Quyền đối với bất động sản liền kề là quyền được thực hiện trên một bất động sản (gọi là bất động sản chịu hưởng quyền) nhằm phục vụ cho việc khai thác một bất động sản khác thuộc quyền sở hữu của người khác (gọi là bất động sản hưởng quyền)”
Việc thực hiện đối với bất động sản liền kề để nhằm phục vụ cho việc khai thác bất động sản nhất định như: lối đi qua, về tưới tiêu nước trong canh tác, trong việc cấp thoát nước qua các bất động sản liền kề, mắc đường dây tải điện, thông tin liên lạc qua các bất động sản khác,…
Việc xác định căn cứ xác lập quyền đối với bất động sản liền kề được xác lập do địa thế tự nhiên từ quá trình vận động của tự nhiên, căn cứ dựa trên quy định của pháp luật – nếu trong trường hợp luật có quy định thì người có quyền với bất động sản liền kề bắt buộc phải cho các chủ thể có quyền của bất động sản bị vây bọc được hưởng quyền, ví dụ: quyền về lối đi qua, việc xác lập quyền đối với bất động sản liền kề thì còn dựa theo sự thỏa thuận thống nhất ý chí giữa các chủ thể có quyền, và căn cứ theo di chúc.
Hai là quyền hưởng dụng. Căn cứ vào điều 257 Bộ luật dân sự 2015 thì quyền hưởng dụng là
“Quyền hưởng dụng là quyền của chủ thể được khai thác công dụng và hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của chủ thể khác trong một thời hạn nhất định”.
Quyền hưởng dụng là một quyền tài sản của người hưởng dụng có tính độc lập, người hưởng dụng là người co quyền khai thác tài sản của chủ sở hữu theo thỏa thuận, theo di chúc hoặc theo hướng dẫn của pháp luật nhưng không có nghĩa vụ hoàn trả các lợi ích cho chủ sở hữu, cho nên người hưởng dụng có một số quyền hạn chế như quyền chuyển giao cho người khác về việc chuyển giao cho người khác hưởng dụng hoặc cho thuê quyền hưởng dụng.
Và thời gian thực hiện quyền hưởng dụng là một khoảng thời gian nhất định trên cơ sở thỏa thuận hoặc theo hướng dẫn của pháp luật, khoảng thời hạn tối đa có thể hết cuộc đời của người hưởng dụng đầu tiên nếu người hưởng dụng là cá nhân. Nếu trong trường hợp có thỏa thuận về thời hạn thì khi hết khoảng thời gian đó thì người hưởng dụng phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu.
Thứ ba, quyền bề mặt.
“Quyền bề mặt là quyền của một chủ thể đối với mặt đất, mặt nước, khoảng không gian trên mặt đất, mặt nước và lòng đất mà quyền sử dụng đất đó thuộc về chủ thể khác”. (Căn cứ điều 267 Bộ luật dân sự 2015)
Quyền bề mặt là một loại vật quyền hình thành trong quan hệ vật quyền, đối tượng của quyền bề mặt có thể là vật cụ thể gắn với đất hoặc là phần không gian, theo đó vật gắn với đất sẽ được tạo lập, vật cụ thể gắn với đất có thể nằm trên bề mặt đất, nằm dưới bề mặt đất hoặc phần không gian trên mặt đất.
Căn cứ xác lập quyền bề mặt có thể dựa trên sự thỏa thuận, theo hướng dẫn của pháp luật hoặc theo di chúc. Để đảm bảo thuận lợi hơn cho việc khai thác, sử dụng thì thời hạn của quyền bề mặt thường tồn tại vài chục năm thì chủ sở hữu mới có thể khai thác hiệu quả quyền bề mặt. Còn đối với các loại hợp đồng thuê khoán thì thời hạn cho thuê không kéo dài quá thời gian sử dụng đất.
2. Trái quyền
2.1. Khái niệm trái quyền
Trái quyền hay còn được gọi là trái vụ là quyền của một người, được phép yêu cầu một người khác thực hiện một nghĩa vụ tài sản đối với mình. Đó có thể là nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản.
Nói cách khác trái quyền là quyền cho phép một người gọi là trái chủ đòi hỏi một người khác, gọi là thụ trái, thực hiện một việc. Điều đó có nghĩa rằng, để quan hệ trái quyền vận hành hoàn hảo, nhất thiết phải có sự hợp tác của cả trái chủ và thụ trái. Về mặt cấu trúc kỹ thuật, trái quyền được hình thành từ ba yếu tố: trái chủ, thụ trái và đối tượng.
2.2. Phân loại trái quyền
Cũng như đối với vật quyền, có nhiều cách phân loại trái quyền trong khoa học luật. Với cách phổ biến nhất, người ta có thể chia các trái quyền thành hai nhóm dựa vào đối tượng của trái quyền: trái quyền có đối tượng là công việc và trái quyền có đối tượng là chuyển giao một vật quyền.
Và trong quan hệ trái quyền phát sinh mối quan hệ giữa trái chủ và thụ trái và đối tượng. Trái chủ là người được hưởng trái vụ và bên thụ trái là người phải thực hiện trái vụ. Và mối quan hệ này được thể hiện thông qua các loại trái quyền sau:
a, Trái quyền có đối tượng là công việc
Loại trái quyền này được hiểu là một quan hệ nghĩa vụ mà trong đó thụ trái cam kết thực hiện một công việc vì lợi ích của trái chủ: người kĩ sư máy tính cam kết sửa chửa lại phần mềm máy tính bị hư… Trái quyền có đối tượng là không làm một việc là loại quan hệ nghĩa vụ trong đó thụ trái cam kết giữ thái độ thụ động về một phương diện nào đó, vì lợi ích của trái chủ; chẳng hạn: người bán một sản nghiệp thương mại cam kết không mở một cơ sở kinh doanh cùng ngành nghề trong khu vực lân cận trong một khoảng thời gian nào đó.
Đối với trường hợp đối tượng của trái quyền là công việc thì việc thực hiện công việc đó chính là nghĩa vụ của các bên khi tham gia và giao dịch dân sự trái quyền.
b, Trái quyền có đối tượng là chuyển giao một vật quyền
Trái quyền có đối tượng là chuyển giao một vật quyền là một quan hệ nghĩa vụ trong đó thụ trái cam kết trao cho trái chủ một vật quyền vốn thuộc về mình, đặc biệt là quyền sở hữu đối với một tài sản.
Ví dụ: chuyển quyền sở hữu đối với một số lượng hàng hóa cùng loại.
Vì vậy, ta có thể hiểu đối tượng của trái quyền trong trường hợp này là tài sản và mối quan hệ giữa nghĩa vụ với chính tài sản đó. Căn cứ ở đây là quyền sở hữu với tài sản. Khi thực hiện chuyển giao một vật quyền hay nhiều vật quyền thì việc xác lập nghĩa vụ trách nhiệm với tài sản đó sẽ được hình thành.
2.3. Chế độ pháp lý về trái quyền
Pháp luật hiện hành không sử dụng thuật ngữ “trái quyền” mà sử dụng thuật ngữ “quyền yêu cầu” để chỉ mối quan hệ giữa một người có quyền và một người có nghĩa vụ tương ứng. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam , trái quyền được ghi nhận tại Bộ luật dân sự 2015 và mang trọn vẹn các đặc điểm về cấu trúc pháp lý và về tính chất của trái quyền trong luật La tinh.
Về pháp lý, thì trái quyền là quan hệ giữa các chủ thể, giữa chủ thể có quyền và chủ thể thực hiện nghĩa vụ. Việc thực hiện quan hệ trái quyền ngoài các quy định của pháp luật thì điều cần thiết là sự thỏa thuận và hợp tác giữa các bên chủ thể.
Theo quy định của bộ luật dân sự thì trái quyền được thể hiện thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ dân sự. Nghĩa vụ dân sự được hiểu là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc khác hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền). Theo đó thì đối tượng của nghĩa vụ dân sự là tài sản có thể giao dịch được, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện, công việc phải là công việc thực hiện được.
Trái quyền có đối tượng là tài sản theo hướng dẫn của Bộ luật dân sự thể hiện trong các quy định về nghĩa vụ và hợp đồng dân sự, các quan hệ mua bán tài sản. Nếu trong trường hợp quan hệ đó là việc thực hiện nghĩa vụ giao vật thì bên có nghĩa vụ phải đảm bảo việc bảo quản giữ gìn vật cho đến khi giao, nếu đó là vật đặc định thì bên có nghĩa vụ phải giao đúng vật theo đúng tình trạng hai bên đã giao kết, nếu trong trường hợp là vật cùng loại thì phải giao đúng số lượng và chất lượng như đã thoả thuận và nếu không có thoả thuận về chất lượng thì phải giao vật đó với chất lượng trung bình; nếu là vật đồng bộ thì phải giao đồng bộ.
Trái quyền có đối tượng là tài sản còn được thể hiện trong các giao dịch cầm cố, thế chấp tài sản hoặc trong các hợp đồng thuê khoán tài sản. Trong quan hệ thuê tài sản quy định tại Bộ luật dân sự thì bên trái chủ phải giao tài sản cho bên thuê đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, tình trạng và đúng thời gian, địa điểm đã thoả thuận và gửi tới những thông tin cần thiết về việc sử dụng tài sản đó và phải bảo đảm tài sản thuê trong tình trạng như đã thoả thuận, phù hợp với mục đích thuê trong suốt thời gian cho thuê; phải sửa chữa những hư hỏng, khuyết tật của tài sản thuê, trừ hư hỏng nhỏ mà theo tập cửa hàng bên thuê phải tự sửa chữa.
Và bên thụ trái phải đảm bảo sử dụng tài sản thuê theo đúng công dụng của tài sản và đúng mục đích đã thoả thuận và phải trả đủ tiền thuê đúng thời hạn đã thoả thuận; nếu không có thoả thuận về thời hạn trả tiền thuê thì thời hạn trả tiền thuê được xác định theo tập cửa hàng nơi trả tiền; nếu không thể xác định được thời hạn theo tập cửa hàng thì bên thuê phải trả tiền khi trả lại tài sản thuê.
Trái quyền có đối tượng là công việc phải thực hiện được quy định trong Bộ luật dân sự 2015 từ Điều 604 đến Điều 630. Trong các quy định này, trái quyền thể hiện dưới dạng những quyền nhân thân có thể trị giá được thành tiền như quyền yêu cầu trợ cấp, cấp dưỡng hay quyền đòi bồi thường một khoản tiền để bù đắp tinh thần cho người bị hại, người thân thích của nạn nhân (Điều 590, điều 591, Điều 592 Bộ luật dân sự 2015) nhưng không thể chuyển giao cho người khác được vì gắn liền với nhân thân của người có quyền. Căn cứ vào điều 115 Bộ luật dân sự 2015 những quyền nhân thân trị giá được bằng tiền không phải là quyền tài sản vì không thể chuyển giao được cho người khác
Căn cứ theo hướng dẫn tại Điều 609 của Bộ luật dân sự năm 2015 quyền yêu cầu bồi thường tổn hại do sức khỏe bị xâm hại gồm:
“Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị tổn hại;
Thu nhập thực tiễn bị mất hoặc bị giảm sút của người bị tổn hại; nếu thu nhập thực tiễn của người bị tổn hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tiễn bị mất của người chăm sóc người bị tổn hại trong thời gian điều trị; nếu người bị tổn hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì tổn hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị tổn hại
Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường tổn hại theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”.
Trong quan hệ pháp luật này bên thụ trái phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường tổn hại do hành vi của mình gây ra, bên trái chủ là bên nhân được quyền bồi thường do hành vi của thụ trái gây ra. Thiệt hại thực tiễn phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường là lỗi, nếu tổn hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên gây ra tổn hại thì bên gây ra tổn hại phải bồi thường toàn bộ, còn nếu tổn hại xảy ra một phần do người bị tổn hại thì bên gây ra tổn hại chỉ phải bồi thường phần tổn hại do lỗi của mình gây ra.
Việc xác định mức bồi thường dựa trên sự thỏa thuận của các bên, có thể bằng tiền bằng hiện vật hoặc bằng một công việc cụ thể. Bên trái chủ là bên được hưởng các quyền lợi mà bên thụ trái đem lại dựa trên cơ sở những tổn hại có thể tính được bằng giá trị cụ thể.
Có trường hợp thụ trái thực hiện đúng và trọn vẹn nghĩa vụ nhưng trái chủ lại không chịu tiếp nhận; khi đó, luật phải đặt ra một chế định cho phép tiếp nhận thay, để giải phóng thụ trái khỏi quan hệ nghĩa vụ ấy. Cũng có trường hợp thụ trái không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ; khi đó, trái chủ phải tiến hành cưỡng chế theo các thủ tục rất phức tạp và tốn kém.
3. Dịch vụ tư vấn luật LVN Group
Trên đây là thông tin về Vật quyền và trái quyền trong luật dân sựmà Công ty Luật LVN Group gửi đến quý bạn đọc tham khảo. Nếu cần cung cấp thêm thông tin chi tiết quy định về dân sự, quý khách vui lòng truy cập trang web: https://lvngroup.vn để được trao đổi cụ thể.