Vì sao phải kiếm soát quyền lực nhà nước? - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Vì sao phải kiếm soát quyền lực nhà nước?

Vì sao phải kiếm soát quyền lực nhà nước?

Kiểm soát quyền lực là nguyên tắc của nhà nước pháp quyền để các đơn vị trong bộ máy nhà nước thực thi có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định, khắc phục tình trạng lạm quyền, lộng quyền. Nếu quyền lực nhà nước không được kiểm soát sẽ dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền, lộng quyền, chuyên quyền, lợi dụng quyền lực để trục lợi, hoặc làm sai lệch bản chất của Nhà nước pháp quyền.

1. Quyền lực Nhà nước là gì?

Quyền lực nhà nước là quyền lực gắn liền với sự ra đời của nhà nước, theo đó nhà nước được áp dặt ý chí và buộc những chủ thể khác trong xã hội phải phục tùng mệnh lệnh của mình nhằm đảm bảo an ninh, duy trì trật tự xã hội.

Quyền lực Nhà nước lớn mạnh đến đâu còn phụ thuộc vào sức mạnh vũ trang, kinh tế, uy tín,… của chính nhà nước đó trong xã hội.

Tại Việt Nam, nhà nước được hiểu là tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội. Bao gồm một lớp người được tách ra từ xã hội để chuyên thực thi quyền lực, nhằm tổ chức và quản lý xã hội, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội cũng như lợi ích của lực lượng cầm quyền trong xã hội.

Tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các đơn vị nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nguyên tắc này cũng là quan điểm trong chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ở thời kỳ đẩy mạnh đổi mới kinh tế chính trị.

2. Kiểm soát quyền lực Nhà nước là gì?

Kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ hoạt động xem xét, theo dõi, đánh giá để ngăn chặn, loại bỏ những nguy cơ, những hành vi, những việc làm sai trái của các chủ thể trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước bảo đảm cho quyền lực nhà nước được sử dụng và thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật.

3. Ý nghĩa của kiểm soát quyền lực

– Trước hết, kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN là “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà quyền lực của nhân dân, được nhân dân ủy quyền, nhân dân giao quyền. Nhân dân không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của mình mà lại giao cho Nhà nước thay mình thực hiện, nên tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền lực nhà nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho Nhà nước, quyền lực nhà nước lại thường vận động theo xu hướng tự phủ định mình, trở thành đối lập với chính mình lúc ban đầu (từ của nhân dân là số đông chuyển sang số ít của một nhóm người hoặc của một người). C.Mác gọi sự kiện này là sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các đơn vị nhà nước suy cho cùng là giao cho những con người cụ thể thực thi. Mà hành động của con người thì luôn luôn chịu sự tác động của các loại tình cảm và dục vọng khiến cho lý tính đôi khi bị chìm khuất. Đặc biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các dục vọng, thói quen hay tình cảm thì khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực nhà nước càng lớn.

Xuất phát từ đòi hỏi khách quan nói trên, quyền lực nhà nước thường được lượng hóa, phân định thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự lượng hóa này là để giao cho các đơn vị nhà nước khác nhau, thay mặt nhân dân thực hiện. Xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, việc phân định thành ba quyền nói trên là một nhu cầu khách quan. Thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta chỉ ra rằng, việc phân định rành mạch ba quyền là cách thức tốt nhất để phát huy vai trò của nhà nước đồng thời là cơ sở để kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước.

Mặt khác, trong quan hệ với quyền lực nhà nước, một thực tiễn khách quan thường xảy ra là công dân không được bình đẳng với Nhà nước về thông tin, nên thường xảy ra tình trạng:

– Người chủ quyền lực nhà nước (nhân dân) thiếu thông tin hoặc không được thông tin trọn vẹn;

– Khả năng Nhà nước không nắm bắt đúng mục đích, lợi ích của nhân dân;

– Khả năng những người thực thi quyền lực cụ thể không hiểu rõ mục đích;

– Khả năng hiểu đúng mục đích nhưng không sử dụng quyền lực đúng cách, hợp lý;

– Khả năng các uỷ quyền vì lợi ích riêng có thể vượt quyền, lạm quyền làm tổn hại đến mục đích chung. Hơn nữa, Nhà nước là tổ chức duy nhất có thuộc tính cưỡng chế. “Thuộc tính cưỡng chế mang lại cho Nhà nước quyền lực can thiệp một cách có hiệu quả vào các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, nhưng với độc quyền này, Nhà nước có thể can thiệp một cách độc đoán, chuyên quyền, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Quyền này cộng với bất bình đẳng về thông tin giữa dân chúng và Nhà nước tạo ra những cơ hội cho các công chức xúc tiến những lợi ích của riêng họ hay những bạn bè đồng minh của họ, làm tổn hại cho lợi ích chung. Những khả năng kiếm lợi và tham nhũng là rất lớn.

– Hai là, kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền XHCN còn là tất yếu kỹ thuật để thực thi quyền lực đạt hiệu quả. Quyền lực nhà nước nếu không được tổ chức thành hệ thống, tuân theo những nguyên tắc, cơ chế, quy trình nhất định và được thực thi bởi những con người cụ thể thì quyền lực không phát huy được vai trò của mình. Do khả năng sai lệch trong nhận thức và thực thi quyền lực nhà nước, khả năng sử dụng quyền lực thiếu hiệu quả là có thể xảy ra.

Hơn nữa, con người bị điều khiển bởi nhiều khát vọng, trong đó có khát vọng về quyền lực vừa là mục tiêu, vừa là công cụ để đạt được các khát vọng khác. Do đó, không thể khẳng định người được ủy quyền luôn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Vì vậy, trong tổ chức quyền lực nhà nước cần phải có sự kiểm soát một cách chặt chẽ những con người công tác trong bộ máy quyền lực nhà nước, để có thể phát hiện và xử lý được khi những người này không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

– Ba là, kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam còn bắt nguồn từ đặc trưng Nhà nước ta do một Đảng duy nhất lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là một tất yếu lịch sử. Tất yếu đó đòi hỏi phải kiểm soát quyền lực giữa các chủ thể cấu thành hệ thống chính trị ở nước ta. Đó là:

+ Kiểm soát của nhân dân, chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước đối với quyền lực nhà nước.

+ Kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, giữa quyền lực nhà nước ở trung ương và quyền lực nhà nước ở địa phương.

+ Kiểm soát của chủ thể lãnh đạo nhà nước là Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước.

Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các chủ thể nói trên là nhằm đảm bảo cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước vận hành nhịp nhàng, ăn khớp và thông suốt, chống được lạm quyền, lộng quyền. Tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước có sự kiểm soát thì “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” không chỉ tuyên bố trong Cương lĩnh, trong Hiến pháp mà là điều kiện làm cho nó trở thành hiện thực. Do đó, “kiểm soát quyền lực” thực chất là kiểm soát quyền lực nhà nước để đảm bảo cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới xây dựng.

4. Vì sao phải kiếm soát quyền lực nhà nước?

Thực tế, khi đã hình thành quyền lực thì phải có sự kiểm soát quyền lực. Việc hình thành quyền lực, dù là quyền lực của tổ chức hay là của cá nhân, thì cũng phải được kiểm soát. Nếu quyền lực nhà nước không được kiểm soát sẽ dễ dẫn đến tình trạng lạm quyền, lộng quyền, chuyên quyền, lợi dụng quyền lực để trục lợi, hoặc làm sai lệch bản chất của Nhà nước pháp quyền. Tôi cho rằng, kiểm soát quyền lực là nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền, để các đơn vị lập pháp, hành pháp, tư pháp thực thi có hiệu quả và hiệu lực chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp quy định và được nhân dân ủy quyền. Mọi quyền lực thuộc về nhân dân, các đơn vị lập pháp, tư pháp và hành pháp được nhân dân ủy quyền và được Hiến pháp quy định, thì các quyền lực đó phải được kiểm soát chặt chẽ; tránh tình trạng tổ chức hoặc cá nhân lợi dụng quyền lực để phục vụ cho lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm. Thực tế điều hành đất nước, quản lý xã hội trong thời gian qua đã cho bài học sâu sắc: nơi nào, cấp nào thiếu vắng kiểm soát, giám sát quyền lực là nơi đó có vấn đề về lạm quyền.

Cơ chế kiểm soát quyền lực cũng được thể hiện rất rõ trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Theo đó, QH là đơn vị lập pháp, xây dựng pháp luật để toàn bộ bộ máy nhà nước và người dân thực hiện, các đơn vị trình dự án luật, QH thông qua luật, Chủ tịch Nước có quyền công bố luật, pháp lệnh; nếu luật, pháp lệnh QH đã thông qua, nhưng còn có vấn đề thì Chủ tịch Nước có quyền không công bố luật, pháp lệnh. Hành pháp là đơn vị hành chính nhà nước, thực hiện quyền năng điều hành đất nước theo hướng dẫn của Hiến pháp và pháp luật. Cơ quan tư pháp, trong đó Viện kiểm sát nhân dân giữ quyền công tố và Tòa án nhân dân là đơn vị xét xử. Cơ quan xét xử phải xét xử độc lập và tuân theo pháp luật. Các đơn vị khác như lập pháp, hành pháp hoặc các tổ chức chính trị, xã hội không được can thiệp vào việc xét xử của đơn vị tư pháp. Đó chính là kiểm soát quyền lực lẫn nhau. Đặc biệt nhân dân có quyền kiểm soát những đơn vị do mình ủy quyền, đó là đơn vị lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 thể hiện rõ nội dung này ở các chương và các điều cụ thể. Trong Chương V về QH, Điều 74 (sửa đổi, bổ sung Điều 83 Hiến pháp hiện hành) đã nêu rõ chức năng, quyền hạn của QH: QH là đơn vị đại biểu cao nhất của nhân dân, đơn vị quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. QH thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề cần thiết của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Bên cạnh đó, Điều 75 (sửa đổi, bổ sung Điều 84) cũng quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của QH trên các mặt công tác như xây dựng, sửa đổi Hiến pháp; xây dựng, sửa đổi Luật; quyền giám sát tối cao, quyền quyết định các vấn đề cần thiết của đất nước; quyết định các chính sách về dân tộc, tổ chức, hoạt động của QH, của Chủ tịch Nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân; bầu, bãi nhiệm các chức danh do QH, HĐND bầu hoặc phê chuẩn… Vì vậy, trong Điều 75, dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã có 15 nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của QH. Trong Chương V cũng quy định về vai trò của UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, và các Ủy ban của QH, cơ chế phối hợp, thực hiện chức năng, nhiệm vụ giữa các đơn vị.

Tương tự như vậy, trong Chương VI, Chủ tịch Nước, Điều 91, quy định Chủ tịch Nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Điều 92, 93 và các điều khác trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Nước.

Quy định về kiểm soát quyền lực trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cho thấy, QH quy định tổ chức và hoạt động của QH, Chủ tịch Nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng Hiến pháp, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và các đơn vị khác do QH thành lập. QH bầu Thủ tướng Chính phủ, phê chuẩn danh sách các thành viên Chính phủ trên cơ sở đề nghị của Thủ tướng Chính phủ như Phó thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ. Định kỳ tại các Kỳ họp, QH tiến hành giám sát các hoạt động của Chính phủ bằng cách xem xét báo cáo của Chính phủ, nếu cần, ra các Nghị quyết về các báo cáo của Chính phủ, hiệu quả hoạt động của Chính phủ qua báo cáo đó. Đối với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng tương tự, QH cũng xem xét báo cáo của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Điều đó có nghĩa, QH giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Đối với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao, trên cơ sở chức năng của mình, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, QH không can thiệp vào nhiệm vụ xét xử và công tố của đơn vị tư pháp. Chính phủ là đơn vị hành pháp. QH không can thiệp trực tiếp vào sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Đó chính là tính độc lập giữa các đơn vị trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: QH kiểm soát đơn vị tư pháp và hành pháp, thì ai kiểm soát QH? Đó chính là nhân dân. Nhân dân bầu ra ĐBQH bằng lá phiếu của mình, nhân dân ủy quyền quyền lực của mình cho QH, kiểm soát mọi hoạt động của QH. Cử tri thực hiện kiểm soát, giám sát hoạt động của ĐBQH do mình bầu ra.

Bên cạnh đó, điểm mới trong dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là Điều 120, với việc thành lập Hội đồng Hiến pháp, do QH thành lập và chỉ tuân theo pháp luật, cũng là một đơn vị để giúp kiểm soát quyền lực nhà nước. Hội đồng Hiến pháp tương tự Hội đồng bảo hiến ở các nước. Nếu các văn bản của QH thông qua mà vi hiến thì Hội đồng Hiến pháp có thể thổi còi. Nếu xét xử của đơn vị tư pháp, quyết định hành chính của đơn vị hành pháp vi hiến, vi phạm quyền công dân, quyền con người, Hội đồng Hiến pháp cũng có thể cảnh báo, yêu cầu không được làm hoặc yêu cầu dừng lại. Tức là Hội đồng Hiến pháp kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm pháp luật của QH, Chủ tịch Nước, UBTVQH, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện  kiểm sát nhân dân tối cao ban hành.

Kiểm soát quyền lực là nguyên tắc của nhà nước pháp quyền để các đơn vị trong bộ máy nhà nước thực thi có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo luật định, khắc phục tình trạng lạm quyền, lộng quyền.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com