Vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia trên biển là gì? Hãy cùng Luật LVN Group nghiên cứu chi tiết thông qua nội dung trình bày sau !!
1. Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia ?
Tính từ bờ biển của quốc gia trở ra ngoài khơi, Luật biển quốc tế xác định có các vùng biển: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, biển quốc tế và vùng. Chế độ pháp lý cũng như chiều rộng của mỗi vùng biển được xác lập hoàn toàn phù hợp với tính chất của vùng biển đó. Các vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia là các vùng biển nằm phía trong đường biên giới quốc gia trên biển và là một bộ phận cấu thành lãnh thổ của quốc gia ven biển. Vì vậy, trong số các vùng biển nói trên, chỉ có nội thủy và lãnh hải là lãnh thổ biển của quốc gia ven biển. Trên cơ sở chủ quyền quốc gia và phù hợp với các quy định của Luật biển quốc tế, các quốc gia có biển trong đó có Việt Nam đã ban hành các quy định có liên quan nhằm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, khai thác hiệu quả các lợi ích ở nội thủy và lãnh hải của mình.
Khác với các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa – vốn thuộc về biển cả và có chiều rộng khá lớn, chủ quyền của quốc gia ven biển đối với vùng biển gần bờ (nhất là nội thủy) mặc nhiên được thừa nhận nhằm đảm bảo an ninh và sự tiếp cận của quốc gia ven biển với các nguồn tài nguyên tiếp giáp với vùng đất. Chính vì vậy, mặc dù không thành công, nhưng Hội nghị Lahay năm 1930 đã đưa ra định nghĩa:
“Lãnh thổ của quốc gia bao gồm một vùng biển được gọi trong Công ước này dưới cái tên là lãnh hải. Chủ quyền trên vùng này được thực hiện theo những quy định của Công ước và bởi các quy tắc khác của luật quốc tế”.
Tương tự, Công ước Giơnevơ 1958 về Lãnh hải và vùng tiếp giáp cũng như UNCLOS 1982 đều quy định:
“Chủ quyền của một quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài phạm vi lãnh thổ đất liền và nội thủy đến một vùng… ”.
Có thể thấy các công ước này không đưa ra định nghĩa lãnh hải mà khẳng định vùng đó thuộc chủ quyền quốc gia ven biển.
Nghiên cứu quá trình hình thành vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia cho thấy, không có các tranh luận, quan điểm, học thuyết về nguyên nhân dẫn đến sự hình thành vùng biển thuộc chủ quyền quốc gia. Các tranh luận chỉ tập trung vào việc xác định phạm vi/ranh giới của.các vùng biển thuộc chủ quyền. Vì vậy, căn cứ vị trí địa lý, có thể thấy cơ sở của sự hình thành và thừa nhận các vùng biển thuộc chủ quyền gắn liền với nguyên tắc đất thống trị biển và sự ra đời của các phương pháp xác định đường cơ sở. Rõ ràng điều này bắt nguồn một cách tự động từ việc thực hiện chù quyền đối với lãnh thổ đất, nên mọi quốc gia ven biển đều có một lãnh hải – lãnh thổ biển (Quan niệm về lãnh hải ban đầu rất đơn giản. Ngay cả vào đầu thế ki XX, Gidel vẫn còn định nghĩa “lãnh hải là vùng nước nằm ở giữa, một bên là vùng nước nội địa, một bên là biển cả”. Tuy nhiên, trong thực tiễn, các quốc gia hữu quan cần đưa ra tuyên bố bằng những cách thức khác nhau để xác định phạm vi của vùng biển đó.
2. Các vùng biển thuộc thủ quyền quốc gia của Việt Nam
Việt Nam là quốc gia ven biển nằm bên bờ Tây của Biển Đông, có vị trí địa chính trị và địa kinh tế rất cần thiết. Bờ biển Việt Nam dài hơn 3.260km trải dài từ Bắc xuống Nãm với nhiều vịnh, đảo và quần đảo, các vùng biển rộng và nguồn tài nguyên thủy hải sản dồi dào. Trong số 63 tỉnh, thành phổ của Việt Nam thì có đến 28 tỉnh, thành phố có biển. Biển đảo gắn liền với quá trình xây dựng, phát triển đất nước và con người Việt Nam. Phù hợp với quá trình phát triển của Luật biển quổc tế, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, trong đó phải kể đến Tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ngày 12/5/1977 về các vùng biển của Việt Nam, Tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ngày 12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam (Tuyên bố năm 1982), Luật biển giới Quốc gia năm 2003, Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2005 và năm 2015, Nghị định số 21/2012/NĐ-CP ngày 21/3/2012 của Chính phủ về quản lý cảng biển và luồng hàng hải, Nghị định số 109/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về Quy chế bảo vệ công trình cảng biển và luồng hàng hải, Nghị định số 58/2017/NĐ-CP ngày 10/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Hàng hải Việt Nam về quản lý hoạt động hàng hải…
Đặc biệt là Luật Biển Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa xin, kì họp thứ 3 thông qua ngày 21/6/2012 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013). Các văn bản này tạo thành một hệ thống đồng bộ điều chỉnh các hoạt động của mọi cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước trên các vùng biển Việt Nam nói chung và nội thủy, lãnh hải của Việt Nam nói riêng. Cùng với UNCLOS 1982, hệ thống pháp luật hiện hành về biển của Việt Nam là cơ sở pháp lý cần thiết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và các lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển.
3. Nội thủy thuộc chủ quyền của Việt Nam
Luật Biển Việt Nam năm 2012, tại Chương II Điều 9 quy định: “Nội thủy là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận lãnh thổ của Việt Nam”. So với quy định về nội thủy của Việt Nam trước đây (Xem thêm Tuyên bố năm 1982), Luật biển Vĩệt Nam năm 2012 đã khẳng định rõ hơn bản chất của nội thủy – là bộ phận lãnh thổ Việt Nam.
Với cấu trúc lãnh thổ của Việt Nam, nội thủy không chi là vùng nước biển nằm phía trong đường cơ sở – đã được xác định và công bố trong Tuyên bố năm 1982 (và tiếp tục được khẳng định trong Luật Biển Việt Nam năm 2012) của Chính phủ Việt Nam mà còn bao gồm cả vùng nước biển giáp với các đảo hoặc nhóm đảo là lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, hiện chúng ta mới chỉ xác định và công bố đường cơ sở vcn bờ lục địa Việt Nam nên Điều 8 Luật Biển Việt Nam năm 2012 cũng khẳng định: “Chính phủ xác định và công bố đường cơ sở ở những khu vực không có đường cơ sở… Khi đường cơ sở của những khu vực nói trên được xác định và công bố, thì đương nhiên, vùng nước biển ở phía trong của đường cơ sở này cũng là nội thủy của Việt Nam.
Đối chiếu với các quy định liên quan của UNCLOS 1982, quy định của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nội thủy của Việt Nam được cấu thành bởi các vùng nước biển, vùng nước cảng biển, vùng nước cửa sông, vùng nước lịch sử (theo Hiệp định về vùng nước lịch sử được ký kết giữa Việt Nam và Campuchia năm 1982).