Xác định đương sự trong việc dân sự - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Xác định đương sự trong việc dân sự

Xác định đương sự trong việc dân sự

Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự. Do đó, việc xác định đương sự đóng vai trò vô cùng cần thiết. Cách xác định đương sự trong việc dân sự được pháp luật quy đinh thế nào? Mời bạn đọc theo dõi nội dung trình bày sau đây của LVN Group.

1. Đương sự là gì?

Đương sự trong việc dân sự

Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự.

Khoản 1 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự: “Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân, đơn vị tổ chức bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.”

Các đương sự tham gia quan hệ pháp luật một cách chủ động nhằm bảo vệ quyền lợi của chính mình hoặc của người khác. Bộ luật tố tụng dân sự 2015 cũng quy định rất cụ thể về thế nào là đương sự trong vụ việc dân sự, và cũng quy định cụ thể từng đương sự một.

2. Cách xác định đương sự trong việc dân sự

– Nguyên đơn:

Theo khoản 2 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự:

“Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được đơn vị, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.

Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.”

Tuy cũng tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình như các đương sự khác nhưng việc tham gia tố tụng của nguyên đơn mang tính chủ động hơn các đương sự khác. Trong tố tụng dân sự, hoạt động tố tụng của nguyên đơn có thể dẫn đến việc làm phát sinh, thay đổi hay đình chỉ tố tụng.

– Bị đơn:

Theo khoản 3 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự:

“Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị đơn vị, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.”

Việc tham gia vào tố tụng của bị đơn mang tính bị động do bị đơn là người bị nguyên đơn hoặc người uỷ quyền theo pháp luật của họ khởi kiện nên bị đơn buộc phải tham gia tố tụng để trả lời về việc kiện. Hoạt động tố tụng dân sự của bị đơn cũng có thể làm thay đổi quá trình giải quyết vụ án dân sự.

– Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Theo khoản 4 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự:

“Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.”

Việc tham gia tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể do họ chủ động, theo yêu cầu của đương sự khác hoặc theo yêu cầu của tòa án do họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án dân sự. Trong đó, quyền đòi bồi hoàn giữa các đương sự là một trong những căn cứ chủ yếu để người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm 2 loại: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập.

Thứ nhất, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập với nguyên đơn và bị đơn. Trong vụ án dân sự, lợi ích pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý của nguyên đơn, bị đơn nên yêu cầu của họ có thể chống cả nguyên đơn, bị đơn.

Thứ hai, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng phụ thuộc vào nguyên đơn hoặc bị đơn. Do đó, khi tham gia tố tụng, lợi ích pháp lý của họ phụ thuộc vào lợi ích pháp lý của nguyên đơn hoặc bị đơn. Tuy nhiên, họ vẫn có quyền quyết định trong phạm vi quyền lợi của mình.

2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự:

Đương sự có quyền tự quyết định việc khởi kiện được không khởi kiện, phản tố được không phản tố, đưa ra yêu cầu độc lập được không.

Đối với cá nhân có trọn vẹn năng lực hành vi tố tụng dân sự, thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của cá nhân đó. Đồng thời, ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.

Đối với cá nhân là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình, thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án về tranh chấp có liên quan đến hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự đó. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của cá nhân đó. Đồng thời, ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.

Đối với cá nhân là người chưa thành niên (trừ trường hợp trên), người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì người uỷ quyền hợp pháp của họ (uỷ quyền theo pháp luật) có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ của người uỷ quyền hợp pháp của cá nhân đó. Đồng thời, ở phần cuối đơn, người uỷ quyền hợp pháp đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.

Vì vậy, nếu đủ năng lực hành vi Tố tụng dân sự, đương sự có thể tự mình khởi kiện. Trường hợp không đủ năng lực hành vi tố tụng thì người uỷ quyền theo pháp luật của đương sự sẽ định đoạt (khởi kiện) thay đương sự. Từ đó có thể thấy, dù đương sự, người uỷ quyền hợp pháp của đương sự trực tiếp hay nhờ người khác làm hộ đơn thì ý chí của họ cũng vẫn được thể hiện trong đơn kiện.

Khi tiến hành khởi kiện, đương sự có toàn quyền quyết định trong việc khởi kiện ai và khởi kiện về những nội dung gì. Tuy nhiên, một vấn đề được đặt ra là nếu đương sự khởi kiện không đúng (chẳng hạn như nhầm về đối tượng khởi kiện hay về quan hệ pháp luật tranh chấp…) Tòa án có nên can thiệp để sửa đổi được không. Ở đây cần nhận là quyền tự định đoạt là quyền tối cao của chính bản thân đương sự nên trong trường hợp đó Tòa án chỉ có thể hướng dẫn cho đương sự xác định lại đối tượng và nội dung khởi kiện. Còn việc đương sự có nghe theo Tòa án hay vẫn giữ quan điểm của mình vẫn là quyền của chính đương sự.

Nếu như nguyên đơn có quyền quyết định việc khởi kiện và nội dung khởi kiện đối với bị đơn thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Trong Tố tụng dân sự, phản tố được hiểu là việc bị đơn khởi kiện ngược lại nguyên đơn về một quan hệ pháp luật khác với quan hệ pháp luật mà nguyên đơn đã khởi kiện. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã dành một số điều luật quy định cụ thể về quyền phản tố của bị đơn. Căn cứ khoản 4 điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự quy định:

“Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Đối với yêu cầu phản tố thì bị đơn có quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này.”

Trong Tố tụng dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng vào vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên cũng có quyền đưa ra yêu cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây:

“Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ; yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết và yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết được nhanh hơn”.

Vì vậy, thực hiện quyền khởi kiện chính là một trong những biểu hiện của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong Tố tụng dân sự. Các đương sự được quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện vụ án dân sự, nộp đơn yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác, có quyền phản tố được không phản tố, có quyền đưa ra yêu cầu độc lập được không đưa ra yêu cầu. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án khi có đơn khởi kiện của các chủ thể.

3. Năng lực tố tụng dân sự của đương sự trong vụ án dân sự:

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự là hai yếu tố cấu thành năng lực chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Đương sự là một loại chủ thể của quan hệ pháp luật Tố tụng dân sự nên để tham gia vào quan hệ pháp luật Tố tụng dân sự thì đương sự phải có Năng lực pháp luật tố tụng dân sự và Năng lực hành vi tố tụng dân sự.

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của đương sự: Là khả năng pháp luật quy định cho các cá nhân, đơn vị, tổ chức và các chủ thể khác có các quyền và nghĩa vụ Tố tụng dân sự.

Năng lực pháp luật tố tụng dân sự  là Năng lực pháp luật dân sự có mối quan hệ mật thiết với nhau. Năng lực pháp luật dân sự là cơ sở của Năng lực pháp luật tố tụng dân sự. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân luôn gắn liền với sự tồn tại của cá nhân từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi cá nhân đó chết. Năng lực pháp luật tố tụng dân sự  của tổ chức xuất hiện khi tổ chức đó được thành lập và mất đi khi tổ chức đó không còn tồn tại.

“Mọi đơn vị, tổ chức, cá nhân có năng lực pháp luật tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình” (khoản 1, Điều 69 Bộ luật tố tụng dân sự)

không thể bị hạn chế hoặc bị tước đoạt các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự (Tố tụng dân sự).  Vì vậy, đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật Tố tụng dân sự là các chủ thể có quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.

* Năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự: Là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ Tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người uỷ quyền tham gia Tố tụng dân sự (khoản 2, Điều 69 Bộ luật tố tụng dân sự) khác với NLPL tố tụng của đương sự, Năng lực hành vi tố tụng dân sự là yếu tố luôn có sự biến động và được xác định ở các mức độ khác nhau. Nếu Năng lực pháp luật tố tụng dân sự là như nhau thì Năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự là khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ Tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người uỷ quyền tham gia Tố tụng dân sự (khoản 2, Điều 69 Bộ luật tố tụng dân sự).

Năng lực hành vi tố tụng dân sự có mối quan hệ mật thiết với NLHVDS, cũng như NLPL Tố tụng dân sự, một chủ thể được xác định là có Năng lực hành vi tố tụng dân sự nếu chủ thể đó có NLHVDS.

Với quy định tại khoản Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã bao quát được tất cả các chủ thể  tham gia quan hệ dân sự đã được quy định trong Bộ luật dân sự 2015 (cá nhân, đơn vị, tổ chức) trong đó:

– Đương sự là cá nhân bao gồm công dân Việt Nam, người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch. Theo quy định tại khoản 3, Điều 57 Bộ luật tố tụng dân sự thì đương sự từ đủ 18 tuổi trở lên có trọn vẹn Năng lực hành vi tố tụng dân sự trừ người mất NLHV dân sự, người bị hạn chế NLHV dân sự hoặc pháp luật có quy định khác. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 thì người chưa đủ 18 tuổi vẫn có thể có trọn vẹn Năng lực hành vi tố tụng dân sự, đương sự là người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó. Quy định này xuất phát từ quy định trong Bộ luật lao động 2019 và Bộ luật dân sự 2015, vì theo Điều 6 Bộ luật lao động năm 2019 người đủ 15 tuổi có quyền ký kết hợp đồng lao động. Còn Bộ luật dân sự năm 2015 quy định trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ, thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không đòi hỏi phải có sự đồng ý của người uỷ quyền theo pháp luật(khoản 2 Điều 20 Bộ luật dân sự 2015). Mặt khác Bộ luật tố tụng dân sự quy định nếu “pháp luật có quy định khác” thì căn cứ vào các quy định đó để xác định năng lực hành vi tố tụng của đương sự. Ví dụ: (người vợ chưa đủ 18 tuổi họ có quyền tham gia Tố tụng dân sự) hoặc người đủ 18 tuổi nhưng lại không có trọn vẹn Năng lực hành vi tố tụng dân sự (trong trường hợp Tòa án cấm cha, mẹ làm uỷ quyền cho con thì họ không được tham gia Tố tụng dân sự).

Đối với đương sự là người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người này tại Tòa án do uỷ quyền hợp pháp của họ thực hiện.

– Đương sự là đơn vị bao gồm các đơn vị Nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân. Cơ quan tham gia tố tụng dân sự thông qua người uỷ quyền theo pháp luật ( thủ trưởng đơn vị) hoặc uỷ quyền theo ủy quyền.

Thông thường một đơn vị gồm nhiều bộ phận cấu thành về nguyên tắc nếu những bộ phận cấu thành này không có quyền độc lập về tài sản thì các bộ phận này không thể tham gia tố tụng với tư cách đương sự.

– Đương sự là tổ chức bao gồm: tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp. Tổ chức tham gia tố tụng dân sự thông qua người uỷ quyền theo pháp luật hoặc uỷ quyền theo ủy quyền. Tổ chức là pháp nhân hoặc không phải là pháp nhân. Có thể tham gia Tố tụng dân sự với tư cách là đương sự.

Trường hợp tổ chức có nhiều bộ phận thì chỉ những bộ phận hoàn toàn độc lập về tài chính mới có tư cách đương sự. Ví dụ: Tổng công ty có văn phòng, có phòng kế toán tài vụ… và các công ty thành viên thì văn phòng, phòng tài vụ… không thể tham gia tố tụng với tư cách đương sự. Nhưng các công ty thành viên, nếu đủ điều kiện là pháp nhân được tham gia tố tụng dân sự với tư cách đương sự.

Đối với việc xác định tư cách tham gia tố tụng dân sự của Hộ gia đình, dòng họ. Hộ gia đình, dòng họ hình thành trên cơ sở huyết thống, tập cửa hàng chứ không do đơn vị có thẩm quyền cho phép hay công nhận, nên hộ gia đình dòng họ tham gia tố tụng dân sự với tư cách đương sự là cá nhân.

Đối với đơn vị, tổ chức nước ngoài thì Năng lực pháp luật tố tụng dân sự được xác định theo pháp luật của nước đơn vị, tổ chức đó được thành lập, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác.

Đối với tổ chức quốc tế thì Năng lực pháp luật tố tụng dân sự được xác định trên cơ sở điều ước Quốc tế là căn cứ để thành lập tổ chức đó, quy chế hoạt động của tổ chức Quốc tế hoặc điều ước Quốc tế đã được ký kết với đơn vị có thẩm quyền của Việt Nam (Điều 408 Bộ luật tố tụng dân sự).

Trên đây là những thông tin LVN Group muốn chia sẻ đến bạn đọc về cách xác định đương sự trong việc dân sự. Trong quá trình nghiên cứu, nếu quý khách hàng có bất kỳ câu hỏi nào về nội dung trình bày hay cần hỗ trợ pháp lý vui lòng liên hệ với chúng tôi để được tư vấn và trả lời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com