Xử lý khi không đủ khả năng để bồi thường thiệt hại - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Xử lý khi không đủ khả năng để bồi thường thiệt hại

Xử lý khi không đủ khả năng để bồi thường thiệt hại

Việc bồi thường tổn hại khi gây ra hành vi xâm hại đến quyền lợi của những người khác là việc không tránh khỏi đối với các chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp, người gây ra tổn hại lại không đủ khả năng để bồi thường tổn hại cho người bị xâm hại. Vậy, trong trường hợp như vậy, pháp luật có quy định thế nào đối với những trường hợp này? Câu trả lời sẽ có trong nội dung trình bày sau đây của chúng tôi.Mời các bạn đọc để biết thêm thông tin !.

1.Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường tổn hại

Theo quy định tại Điều 584 Bộ Luật dân sự 2015 (BLDS 2015), người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây tổn hại thì phải bồi thường. Vì vậy, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường tổn hại bao gồm:

-Có tổn hại xảy ra

“Có tổn hại xảy ra” là yếu tố đầu tiên cấu thành trách nhiệm bồi thường tổn hại ngoài hợp đồng. Bởi lẽ, mục đích của việc áp dụng trách nhiệm này là nhằm bù đắp tổn thất cho người bị tổn hại, do đó không có tổn hại thì sẽ không đặt ra vấn đề bồi thường.
  • Thiệt hại về tài sản là sự mất mát hoặc giảm sút về một lợi ích vật chất được pháp luật bảo vệ, biểu hiện cụ thể là mất tài sản, giảm sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản.
  • Thiệt hại về tinh thần được hiểu là do tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín bị xâm phạm mà người bị tổn hại phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, giảm sút hoặc mất uy tín, danh dự,..

-Có hành vi trái pháp luật

Hành vi trái pháp luật có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự hoặc có thể cả những hành vi vi phạm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, vi phạm các quy tắc sinh hoạt trong cộng đồng dân sư.
Hành vi gây tổn hại thông thường thể hiện dưới dạng hành động. Chủ thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó.
Hành vi gây tổn hại có thể là hành vi hợp pháp nếu người thực hiện hành vi theo nghĩa vụ mà pháp luật hoặc nghề nghiệp buộc họ phải thực hiện các hành vi đó.

-Mối quan hệ nhân quả giữa tổn hại xảy ra và hành vi trái pháp luật

Thiệt hại xảy ra phải là kết quả của hành vi trái pháp luật và ngược lại. Căn cứ này được quy định tại Điều 584 BLDS 2015, theo đó “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây tổn hại thì phải bồi thường”.
Việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và tổn hại xảy ra trong nhiều trường hợp rất khó khăn. Do đó, cần phải xem xét, phân tích, đánh giá tất cả các sự kiện liên quan một cách thận trọng, khách quan và toàn diện.

-Yếu tố lỗi trong trách nhiệm dân sự

Trong trách nhiệm dân sự do gây tổn hại, vấn đề cách thức lỗi, mức độ lỗi ảnh hưởng ít đến việc xác định trách nhiệm. Thậm chí người gây ra tổn hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi (Khoản 3 Điều 601 quy định về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; Điều 602 BTTH do làm ô nhiễm môi trường).
  • Lỗi cố ý: Lỗi cố ý là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây tổn hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho tổn hại xảy ra.
  • Lỗi vô ý: Lỗi vô ý là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây tổn hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước tổn hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây tổn hại nhưng cho rằng tổn hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

2.Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường tổn hại

Bộ luật dân sự 2015 chỉ quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường tổn hại của cá nhân mà không quy định đối với các chủ thể khác.
Xuất phát từ năng lực chủ thể của cá nhân khi tham gia vào quan hệ dân sự, Bộ luật dân sự quy định năng lực hành vi, tình trạng tài sản và khả năng bồi thường của cá nhân cụ thể như sau:
  • Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây tổn hại thì phải tự bồi thường.
  • Người chưa đủ mười lăm tuổi gây tổn hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ tổn hại.Nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây tổn hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường hợp người gây tổn hại dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, pháp nhân khác trực tiếp quản lý.
  • Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây tổn hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình.Trường hợp người gây tổn hại không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.
  • Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi gây tổn hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường.Trong trường hợp người được giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình.Nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường.

3.Biện pháp xử lý khi không đủ khả năng để bồi thường tổn hại 

Có thể tổng hợp từ quy định của Điều 584, Điều 585 như trên và các quy định tại Mục 2 Chương XX Bộ luật Dân sự 2015, khi có tổn hại xảy ra thì người gây ra tổn hại phải bồi thường các loại tổn hại cụ thể như:
  • Về tài sản: Giá trị của tài sản bị mất, bị hủy, bị hư hỏng, bị giảm sút lợi ích gắn liền với tài sản đó…
  • Về sức khỏe: Chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, giảm sút; Thu nhập thực tiễn bị mất; Chi phí và thu nhập thực tiễn của người chăm sóc trong thời gian điều trị…
  • Về tính mạng: Chi phí mai táng, tiền cấp dưỡng cho người mà người bị tổn hại có nghĩa vụ cấp dưỡng…
Tuy nhiên, không phải lúc nào việc bồi thường cũng diễn ra thuận lợi. Trong nhiều trường hợp, người có nghĩa vụ bồi thường không có đủ khả năng thì sẽ được xem xét giảm mức bồi thường:
  • Các bên thỏa thuận: Về nguyên tắc, pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Do vậy, nếu các bên thỏa thuận được về việc giảm mức bồi thường thì sẽ thực hiện theo thỏa thuận đó;
  • Thiệt hại quá lớn với khả năng kinh tế: Trong trường hợp tổn hại quá lớn so với khả năng kinh tế của người gây ra tổn hại thì người này chỉ được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý;
  •  Khi bên tổn hại cũng có lỗi: Trong trường hợp bên bị tổn hại cũng có lỗi thì người gây tổn hại không phải bồi thường phần tổn hại do lỗi của người bị tổn hại gây ra;
  •  Khi tình hình thực tiễn không còn phù hợp với mức bồi thường như trượt giá, lạm phát…: Một trong các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi mức bồi thường.
Vì vậy, khi không đủ khả năng bồi thường tổn hại, nếu muốn giảm mức bồi thường thì người gây tổn hại cần thực hiện 02 cách sau đây:
  • Phải thương lượng được với bên bị tổn hại về việc giảm mức bồi thường;
  •  Đề nghị Tòa án thay đổi mức bồi thường nếu tổn hại quá lớn so với tình hình kinh tế và bản thân không có lỗi hoặc có lỗi do vô ý; do tình hình thực tiễn không còn phù hợp với mức bồi thường hoặc do bên bị tổn hại cũng có lỗi.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com