Xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp tài sản bảo đảm đang bị người khác cầm giữ - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp tài sản bảo đảm đang bị người khác cầm giữ

Xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp tài sản bảo đảm đang bị người khác cầm giữ

Xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp tài sản bảo đảm đang bị người khác cầm giữ thế nào? Hãy cùng Luật LVN Group nghiên cứu chi tiết thông qua nội dung trình bày sau !!

1. Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm

Điều 299, Bộ luật dân sự 2015 quy định các trường hợp mà bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm. Các trường hợp này bao gồm: (1) Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. (2) Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo hướng dẫn của luật. (3) Trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy định.

Vì vậy, một mặt, điều luật này đưa ra các nguyên tắc mang tính mặc định về quyền xử lý bảo đảm của ngân hàng (nhất là trong trường hợp các bên không có thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm); mặt khác, nó cũng cho phép các bên thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm của mình về các trường hợp xử lý bảo đảm khác, đồng thời ghi nhận các trường hợp xử lý bảo đảm bắt buộc theo hướng dẫn tại một văn bản luật cụ thể.

Trường hợp xử lý bảo đảm đầu tiên nêu ở trên là trường hợp thông thường khi có vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm.

Trường hợp thứ hai thường xảy ra khi ngân hàng thu hồi nợ trước hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, khi một tài sản được sử dụng để bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ (khoản 3, Điều 296, Bộ luật dân sự 2015) hay trước khi tuyên bố bên có nghĩa vụ phá sản (điểm b, khoản 1, Điều 53, Luật phá sản số 51/2014/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2014).

Một văn bản luật cũng có thể quy định về trường hợp xử lý bảo đảm. Chẳng hạn, theo hướng dẫn tại Điều 90, Luật thi hành án dân sự số 26/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm 2008, được bổ sung, sửa đổi năm 2014 (Luật thi hành dân sự), trường hợp người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có tài sản nhưng không đủ để thi hành án, chấp hành viên có quyền kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố, thế chấp nếu giá trị của tài sản đó lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án. Mặt khác, các bên cũng có thể thỏa thuận về một số trường hợp xử lý tài sản bảo đảm khác, như khi bên vay vi phạm một nghĩa vụ nào đó của hợp đồng vay hay bên bảo đảm vi phạm một nghĩa vụ nào đó nêu trong hợp đồng bảo đảm.

2. Các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp

Nguyên tắc chung – Theo quy định tại khoản 1, Điều 303, các bên có thể thỏa thuận một trong các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau đây: (1) Bán đấu giá tài sản; (2) Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản; (3)Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm; (4) Phương thức khác.

Đây là một danh sách mở bởi vì điều luật này cũng quy định khả năng các bên có thể thỏa thuận về các phương thức xử lý tài sản bảo đảm khác, ngoài ba phương thức đã được liệt kê.

Chẳng hạn, các bên có thể thỏa thuận về việc đưa tài sản bảo đảm vào khai thác hay cho thuê và số tiền thu được từ việc khai thác hay cho thuê sẽ được sử dụng vào việc thanh toán nghĩa vụ được bảo đảm.

Trong trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm thì tài sản sẽ được bán đấu giá (khoản 2, Điều 303).

Cũng cần lưu ý trong một số trường hợp pháp luật có thể ấn định phương thức xử lý tài sản bảo đảm. Chẳng hạn, theo hướng dẫn tại khoản 2, Điều 149, Luật nhà ở số 65/2014/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2014, việc xử lý tài sản thế chấp là dự án đầu tư xây dựng nhà ở chỉ có thể được thực hiện thông qua việc chuyển nhượng dự án cho một bên đủ điều kiện làm chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở.

Bán đấu giá tài sản – Điều dễ nhận thấy là nhà làm luật đã chính thức công nhận việc bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có thể thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm về việc bán đấu giá tài sản để xử lý tài sản bảo đảm. Vì vậy, phương thức bán đấu giá tài sản có thể được sử dụng để xử lý tài sản bảo đảm trong ba trường hợp chính, đó là (i) nếu các bên có thỏa thuận sử dụng phương thức xử lý bảo đảm này, (ii) bán tài sản đã kê biên là động sản có giá trị từ 2.000.000 đồng và bất động sản (Điều 101, Luật thi hành án dân sự), (iii) trong trường hợp không có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm (khoản 2, Điều 303, Bộ luật dân sự 2015).

Việc bán đấu giá tài sản bảo đảm được thực hiện theo hướng dẫn của pháp luật về bản đấu giá tài sản. Hiện nay, khuôn khổ pháp lý về bán đấu giá tài sản được điều chỉnh chủ yếu bởi Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 về bán đấu giá tài sản và Thông tư số 23/2010/TT-BTP ngày 06 tháng 12 năm 2010 của Bộ
Tư pháp.

Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản – Điều 195, Bộ luật dân sự 2015 quy định “người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo hướng dẫn của luật”. Điểm b, khoản 1, Điều 303 đã mở ra một ngoại lệ cho bên nhận bảo đảm là người không phải chủ sở hữu của tài sản bảo đảm – được tự bán tài sản bảo đảm.

Vì vậy, để ngân hàng được tự mình bán tài sản cầm cố hay thế chấp, chỉ cần các bên có thỏa thuận về phương thức xử lý bảo đảm này, mà không cần có ủy quyền của bên bảo đảm cho ngân hàng vì mục đích này. Đây là một quy định mới và được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho ngân hàng trong việc xử lý bảo đảm.

Bộ luật dân sự 2015 không đề cập thời gian mà các bên có thể thỏa thuận về việc ngân hàng tự bán tài sản bảo đảm. Có thể hiểu, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm hoặc vào thời gian xử lý tài sản bảo đảm.

Nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ – Một trong các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp được quy định tại khoản 1, Điều 303 là “bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm”. Không biết vô tình hay hữu ý mà ở đây người làm luật chỉ cho phép các bên thỏa thuận sử dụng phương thức này nếu nghĩa vụ được bảo đảm ở đây chính là nghĩa vụ của bên bảo đảm. Nói cách khác, phương thức xử lý bảo đảm theo thỏa thuận này không áp dụng cho trường hợp một bên thế chấp hay cầm cố tài sản của mình để bảo đảm cho một bên khác vay vốn tại ngân hàng. Trong trường hợp này, các bên cần quy định các phương thức xử lý bảo đảm khác.

3. Xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp tài sản bảo đảm đang bị người khác cầm giữ

Các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm: Biện pháp bảo đảm có tác dụng giúp cho bên bảo đảm có được sự thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp nghĩa vụ phải thực hiện nhưng đã không được bên có nghĩa vụ thực hiện đúng. Theo quy định tại Điều 299 BLDS năm 2015, nghĩa vụ phải thực hiện là nghĩa vụ đến hạn hoặc phải thực hiện trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thoả thuận hoặc theo hướng dẫn của luật.

Suy cho cùng, việc xử lý tài sản bảo đảm chỉ tỏ ra hợp lý một khi có trọn vẹn dấu hiệu cho thấy nghĩa vụ được bảo đảm không được thực hiện đúng. Bởi vậy, điều cần thiết là một khi nghĩa vụ được bảo đảm cần phải được thực hiện, bên chủ nợ có bảo đảm phải yêu cầu bên có nghĩa vụ được bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong thời hạn hợp lý. Nếu hết thời hạn đó mà nghĩa vụ vẫn chưa được thực hiện, thì việc xử lý tài sản bảo đảm mới được tiến hành. Để ngăn ngừa các tranh chấp không cần thiết, nên quy định việc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ phải được ghi nhận bằng văn bản.

Thủ tục xử lý: Trước khi xử lý tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm phải thông báo bằng văn bản cho bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm khác (khoản 1 Điều 300 BLDS năm 2015). Quy định này nhằm tạo điều kiện cho bên bảo đảm có sự chuẩn bị cần thiết. Đối với tài sản có nguy cơ bị hư hỏng dẫn đến giảm sút giá trị hoặc mất toàn bộ giá trị, thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý ngay, đồng thời phải thông báo cho bên bảo đảm và các bên nhận bảo đảm khác về việc xử lý đó. Nếu tuỳ tiện xử lý tài sản bảo đảm mà không thông báo theo hướng dẫn của luật dẫn đến tổn hại cho bên bảo đảm, các bên cùng bảo đảm khác, thì phải bồi thường (khoản 2 Điều 300 BLDS năm 2015).

Trong trường hợp tài sản bảo đảm đang được bên bảo đảm hoặc người khác nắm giữ, chiếm giữ, thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu người nắm giữ, chiếm giữ giao tài sản cho mình để xử lý (Điều 301 BLDS năm 2015). Nếu người giữ tài sản không chịu giao tài sản, thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu toà án giải quyết (cùng điều luật).

Điều đó có nghĩa là trên nguyên tắc, bên nhận bảo đảm không có quyền tự mình thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý nhằm thu hồi nợ. Việc xử lý tài sản phải được thực hiện theo thủ tục chung về tố tụng dân sự. Chỉ sau khi tài sản được đem bán, thì bên nhận bảo đảm mới thực hiện quyền ưu tiên nhận tiền thanh toán từ tiền bán tài sản so với các chủ nợ không có báo đảm và chủ nợ có thứ tự ưu tiên thanh toán thấp hơn.

Quyền thu giữ theo BLDS: BLDS năm 2015 ghi nhận quyền tự bảo vệ thành một quyền có tính nguyên tắc, được ghi nhận tại Điều 11 và được nhận dạng như một quyền hợp pháp theo các điều kiện được quy định tại Điều 1. Trong lĩnh vực pháp luật tài sản, quyền tự bảo vệ được thừa nhận cho chủ sở hữu và chủ thể có quyền khác đối với tài sản theo khoản 1 Điều 164: “Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền của mình bằng những biện pháp không trái với quy định của pháp luật”.

Nếu coi việc không thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm như một hành vi xâm phạm quyền của chủ nợ có bảo đảm, thì quyền tự bảo vệ, áp dụng Điều 11 và Điều 12 BLDS năm 2015, sẽ cho phép chủ nợ có bảo đảm thu hồi nợ bằng cách tự mình xử lý tài sản bảo đảm. Căn cứ, chủ nợ nhận thế chấp có quyền thu giữ tài sản bằng các phương tiện hợp pháp của riêng mình. Trong trường hợp bị ngăn cản thì chủ nợ có quyền tự bảo vệ trong khuôn khổ phòng vệ chính đáng. Trong trường hợp việc ngăn cản có dấu hiệu của hành vi tấn công, thì chủ nợ có bảo đảm có quyền tự bảo vệ, đồng thời có quyền yêu cầu đơn vị có thẩm quyền hỗ trợ, áp dụng Điều 11 BLDS năm 2015. Tuy nhiên, để áp dụng Điều 11 BLDS năm 2015 trên thực tiễn cần văn bản hướng dẫn thi hành và quy định chi tiết điều luật này.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com