Căn cứ vào Điều 50 Bộ luật Lao động năm 2019 thì Tòa án nhân dân có quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu.

Như vậy, việc quy định như trên nhằm bảo đảm phù hợp với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019.

Luật LVN Group phân tích chi tiết quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề tuyên bố hợp đồng vô hiệu nói chung và hợp đồng lao động vô hiệu nói riêng. Cụ thể:

Hợp đồng vô hiệu được hiểu là giữa các bên có hợp đồng nhưng các thỏa thuận trong hợp đồng bị vô hiệu và hợp đồng đó không phát sinh nghĩa vụ với các bên giao kết hợp đồng. Hiểu được bản chất của hợp đồng lao động vô hiệu sẽ giúp doanh nghiệp cũng như các chủ thể là người lao động không bị nhầm lẫn trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng. Đặc biệt là vấn để thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu vẫn còn có những tranh cãi.

 

1. Tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu trong BLDS năm 2015

1.1 Giao dịch dân sự vô hiệu 

Trên thực tế và căn cứ theo quy định pháp luật thì chỉ những giao dịch hợp pháp mới làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên và được Nhà nước bảo đảm thực hiện.

Một giao dịch dân sự được coi là hợp pháp thì cần phải tuân thủ ba điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (trong một số trường hợp cụ thể thì giao dịch đó còn phải tuân thủ thêm điều kiện về hình thức).

Do đó, theo nguyên tắc của pháp luật dân sự thì nếu giao dịch không tuân thủ một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch thì sẽ bị vô hiệu. Hiện nay, những quy định về sự vô hiệu của giao dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân và Nhà nước; bảo đảm an toàn pháp lý cho các chủ thể trong quá trình giao lưu dân sự.

Như vậy, theo quy định pháp luật thì một giao dịch dân sự hợp pháp khi đáp ứng được  các điều kiện quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 trong đó có ba điều kiện bắt buộc đó là về chủ thể, nội dung và mục đích. Đối với điều kiện về hình thức của giao dịch, điều kiện này chỉ đặt ra khi pháp luật có quy định. Khi giao dịch dân sự không đáp ứng điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự thì có thể bị vô hiệu. Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch không có hiệu lực pháp luật và không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự cho các chủ thể trong giao dịch.

Theo quy định tại Điều 122 BLDS 2015 thì giao dịch dân sự vô hiệu được hiểu là giao dịch không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015. Như vậy, theo quy định của pháp luật, giao dịch dân sự chỉ cần không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực do luật định đã có thể bị vô hiệu. Chính bởi vì thế mà giao dịch dân sự có thể vô hiệu do vi phạm một điều kiện hoặc bị vô hiệu do vi phạm đồng thời nhiều điều kiện có hiệu lực do luật định.

 

1.2 Hợp đồng vô hiệu khi nào?

Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy định khác.

Theo quy định của BLDS năm 2015, hợp đồng gồm các loại chủ yếu sau đây:

  • Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên có nghĩa vụ đối với nhau
  • Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ
  • Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng phụ
  • Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính
  • Hợp đồng là lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó.
  • Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định.

Căn cứ theo quy định tại BLDS năm 2015, hợp đồng bị vô hiệu trong trường hợp:

  • Chủ thể tham gia có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với hợp đồng được xác lập;
  • Chủ thể tham gia hợp đồng bị lừa dối, bị đe dọa, bị ép buộc, không hoàn toàn tự nguyện;
  • Mục đích và nội dung của hợp đồng vi phạm điều cấm của luật, trái với đạo đức xã hội;
  • Không tuân thủ về hình thức của hợp đồng trong giao dịch dân sự.

Trường hợp ngay từ khi giao kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu.

Trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được.

Lưu ý: Hợp đồng có thể bị vô hiệu từng phần, một phần hoặc toàn phần nội dung của hợp đồng

Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.

Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thỏa thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.

Từ thời điểm hợp đồng có hiệu lực, các bên phải thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhau theo cam kết. Hợp đồng chỉ có thể bị sửa đổi hoặc hủy bỏ theo thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật.

 

1.3 Cơ quan nào có thẩm quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu?

BLDS năm 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu. Đối với việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của BLDS năm 2015 quy định Tòa án là cơ quan có thẩm quyền tuyên bố giao dịch dân sự.

Theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp, các yêu cầu trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động… trừ trường hợp pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết thuộc thẩm quyền của cơ quan khác.

Như vậy, căn cứ theo các quy định trên, cơ quan có thẩm quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu là Tòa án nhân dân.

 

1.4 Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu

Căn cứ Điều 132 BLDS năm 2015 quy định thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu khi hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện; vô hiệu do bị nhầm lẫn; vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình; vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức là 02 năm, kể từ ngày:

  • Người đại diện của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự biết hoặc phải biết người được đại diện tự mình xác lập, thực hiện giao dịch;
  • Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối;
  • Người có hành vi đe dọa, cưỡng ép chấm dứt hành vi đe dọa, cưỡng ép;
  • Người không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình xác lập giao dịch;
  • Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức.

Lưu ý:

  • Hết thời hiệu 02 năm mà không có yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì hợp đồng có hiệu lực.
  • Đối với hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội hoặc do giả tạo thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.

 

1.5 Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu

  • Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm hợp đồng được xác lập
  • Khi hợp đồng vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận
  • Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả
  • Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó
  • Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường

Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật dân sự và một số quy định khác của pháp luật có liên quan.

 

1.6 Quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi hợp đồng vô hiệu

Trường hợp hợp đồng vô hiệu nhưng đối tượng của hợp đồng là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì hợp đồng được xác lập, thực hiện với người thức ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của BLDS năm 2015. 

Trường hợp hợp đồng vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì hợp đồng đó không bị vô hiệu.

Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì hợp đồng với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.

Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngày tình, nếu hợp đồng với người này không bị vô hiệu nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc hợp đồng được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại.

 

2. Quy định về thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu:

Theo Điều 51 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu có nội dung như sau:

1. Thanh tra lao động, Tòa án nhân dân có quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu.

2. Chính phủ quy định về trình tự, thủ tục thanh tra lao động tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu.

Như vậy, Bộ luật Lao động năm 2012 quy định thanh tra lao động, Tòa án nhân dân có quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu. Tuy nhiên, Bộ luật Lao động năm 2019 ra đời thay thế cho thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu không đưa ra quy định về thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu. Do vậy, thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu sẽ được áp dụng theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành. Về bản chất, hợp đồng lao động là một giao dịch dân sự. Chính vì thế mà Tòa án nhân dân là cơ quan có thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu.

Các chủ thể là người lao động, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện tập thể lao động, cơ quan nhà nước có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu khi có căn cứ theo quy định của pháp luật lao động. Sau khi Tòa án có thảm quyền thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu, Tòa án sẽ có trách nhiệm gửi thông báo thụ lý cho người có đơn yêu cầu, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện tập thể lao động và viện kiểm sát cùng cấp.

Theo quy định của pháp luật thì thời hạn chuẩn bị xét xử tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu là mười ngày kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu của các cá nhân, tổ chức có yêu cầu. Trong thời hạn này, nếu các chủ thể là người yêu cầu rút đơn yêu cầu thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc xét đơn, văn bản yêu cầu.Cũng theo quy định của pháp luật hiện hành, thì trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Tòa án sẽ phải mở phiên họp để xét yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu. Trong trường hợp nếu cơ quan có thẩm quyền chấp nhận yêu cầu thì thẩm phán ra quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu, thỏa ước lao động vô hiệu, thỏa ước lao động tập thể vô hiệu, Tòa án sẽ phải giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu.

Quyết định tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu phải gửi đến cho các chủ thể là người có đơn hoặc văn bản yêu cầu, người sử dụng lao động, tổ chức đại diện tập thể lao động và cơ quan quản lý nhà nước về lao động nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính, cơ quan quản lý nhà nước về lao động cùng cấp trong trường hợp có liên quan đến doanh nghiệp không có trụ sở chính tại Việt Nam theo quy định cụ thể tại Điều 401 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 402 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Trên đây là những chia sẻ của Luật LVN Group về thẩm quyền tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu và cung cấp những nội dung liên quan. Hi vọng bài viết đã mang lại cho quý bạn đọc những thông tin hữu ích. Trân trọng cảm ơn!