Khoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Khi cá nhân, đơn vị, tổ chức bị xâm phạm về quyền và lợi ích hợp pháp thì có thể nộp đơn đến Tòa án để yêu cầu giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, thẩm quyền giải quyết vụ việc của Tòa án phải tuân theo những quy định pháp luật cụ thể. Vậy với Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận thì giải quyết thế nào? Hãy cùng LVN Group nghiên cứu thông qua nội dung trình bày dưới đây!

Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

1. “Đăng ký kinh doanh” và “có đăng ký kinh doanh”

Đăng ký kinh doanh”: Thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” được sử dụng trong Luật Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2014 (Luật Doanh nghiệp thay thế cụm từ “đăng ký kinh doanh” bằng cụm từ “đăng ký doanh nghiệp”) và một số văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, không có văn bản nào có quy định giải thích thế nào là “đăng ký kinh doanh”. Mặc dù vậy, dựa vào các quy định tương ứng về đăng ký kinh doanh, có thể hiểu đăng ký kinh doanh là sự ghi nhận bằng văn bản của đơn vị nhà nước có thẩm quyền về mặt pháp lý sự ra đời của chủ thể kinh doanh. Đăng ký kinh doanh là nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh.

Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Luật Doanh nghiệp năm 2014 hiện hành và các văn bản có liên quan, thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” không còn được sử dụng mà thay thế bằng các khái niệm khác tùy thuộc vào loại hình tổ chức. Căn cứ: đối với loại hình doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh), trước khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh phải tiến hành “đăng ký doanh nghiệp”; đối với hộ kinh doanh là “đăng ký hộ kinh doanh” và đối với hợp tác xã là “đăng ký hợp tác xã”. Mặc dù có sự khác biệt trong tên gọi nhưng những giấy tờ này đều là chứng cứ chứng minh cho việc các chủ thể nói trên đã thực hiện việc đăng ký kinh doanh với đơn vị nhà nước có thẩm quyền.

Riêng đối với tổ hợp tác, theo Điều 12 Nghị định số 77/2019/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10-10-2019 về Tổ hợp tác có quy định sau khi các thành viên tổ hợp tác ký tên vào hợp đồng hợp tác, tổ trưởng tổ hợp tác gửi thông báo về việc thành lập tổ hợp tác (theo mẫu) kèm theo hợp đồng hợp tác (theo mẫu) đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ hợp tác dự định thành lập và hoạt động…

Đối với cá nhân, pháp luật hiện hành không có quy định về đăng ký kinh doanh đối với chủ thể này. Cá nhân chỉ có thể đăng ký và hoạt động kinh doanh dưới cách thức như hộ kinh doanh hoặc doanh nghiệp tư nhân.

Bên cạnh các loại hình chủ thể kinh doanh phải đăng ký, pháp luật hiện hành còn ghi nhận một số chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh, thương mại nhưng không phải đăng ký. Chẳng hạn, theo khoản 2 Điều 66 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14-9-2015 về đăng ký doanh nghiệp: “Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký, trừ trường hợp kinh doanh các ngành, nghề có điều kiện”. Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 39/2007/NĐ-CP ngày 16-3-2007 về hoạt động thương mại độc lập thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh cũng ghi nhận: “Cá nhân hoạt động thương mại là cá nhân tự mình hàng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh doanh theo hướng dẫn của pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là “thương nhân” theo hướng dẫn của Luật Thương mại…”.

“Có đăng ký kinh doanh”: Nội dung này đang tồn tại 02 quan điểm:

Quan điểm thứ nhất: Cần phải được đơn vị nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký mới được coi là “có đăng ký kinh doanh”: Khoản 1 Điều 6 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP quy định “Cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh là cá nhân, tổ chức đã được các đơn vị có thẩm quyền đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo hướng dẫn của pháp luật […]”. Với quy định này, điều kiện tiên quyết để được coi là “có đăng ký kinh doanh” là phải được đơn vị nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận. Nói cách khác, với cách hiểu này, chỉ có doanh nghiệp, hộ kinh doanh và hợp tác xã là các chủ thể có thể “có đăng ký kinh doanh”.

Vì vậy, xem xét trong các vụ án thực tiễn nêu trên, có thể thấy đường lối giải quyết của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm đối với Vụ án thứ nhất, và Tòa án cấp sơ thẩm trong Vụ án thứ ba là theo quan điểm này.

Quan điểm thứ hai: “có đăng ký kinh doanh” phải được hiểu theo hướng chủ thể được Nhà nước cho phép tiến hành các hoạt động kinh doanh (có thể thông qua giấy phép hoặc không). Bởi lẽ, mục đích của việc đăng ký kinh doanh về cơ bản là để xin phép Nhà nước được tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trong một lĩnh vực nào đó, đồng thời cũng nhằm công bố cho các chủ thể khác biết được thông tin. Do đó, chỉ cần được Nhà nước cho phép tiến hành hoạt động kinh doanh bằng bất kỳ cách thức nào cũng được coi là có đăng ký kinh doanh. Với cách hiểu này, việc có đăng ký kinh doanh không chỉ gói gọn đối với doanh nghiệp, hộ kinh doanh, hợp tác xã mà còn mở rộng đối với tổ hợp tác, hộ gia đình, cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký như đã phân tích ở trên.

Vì vậy, trong Vụ án 2, cả nguyên đơn và bị đơn đều là cá nhân không có đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, cả Tòa án cấp sơ thẩm và Hội đồng xét xử giám đốc thẩm đều xác định tranh chấp giữa bà H với vợ chồng ông N, bà K về “Hợp đồng mua bán sắn lát” là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Số hiệu là của vụ án kinh doanh thương mại (Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 02/2014/QĐST-KDTM ngày 26-3-2014 và Quyết định giám đốc thẩm số 04/2019/KDTM-GĐT ngày 26-4-2019). Vì vậy, Tòa án đã theo hướng xác định tranh chấp về kinh doanh, thương mại dựa vào yếu tố phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại và mục đích lợi nhuận của các bên, và không chú trọng vào việc các bên có đăng ký kinh doanh được không.

Tương tự, Tòa án cấp phúc thẩm trong Vụ án 3 cho rằng, mặc dù ông T không được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp/giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh như Công ty bảo hiểm P, nhưng ông T được phép hoạt động kinh doanh cho thuê xe ô tô tải thì đây cũng được coi là “có đăng ký kinh doanh”.

2. Các bên trong tranh chấp có buộc phải đăng ký kinh doanh được không?

Quan điểm thứ nhất:điều kiện tại khoản 1 Điều 30 BLTTDS năm 2015 đòi hỏi tất cả các bên tranh chấp phải có đăng ký kinh doanh. Quan điểm này dựa vào nội dung tại mục 5 phần IV Công văn số 212/TANDTC-PC về việc thông báo kết quả trả lời trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử ngày 13-9-2019 có hướng dẫn đối với trường hợp tranh chấp giữa doanh nghiệp bảo hiểm với người mua bảo hiểm về việc đóng phí bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ. Theo đó, mặc dù tranh chấp này phát sinh giữa danh nghiệp bảo hiểm đã có đăng ký kinh doanh, hai bên ký kết hợp đồng đều có mục đích lợi nhuận nhưng vì người mua bảo hiểm không có đăng ký kinh doanh nên phải xác định đây là tranh chấp dân sự, cụ thể: “nếu người mua bảo hiểm có đăng ký kinh doanh thì tranh chấp đó là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Nếu người mua bảo hiểm không có đăng ký kinh doanh thì tranh chấp được xác định là tranh chấp về dân sự”.

Có thể nhận thấy, đây là quan điểm của TANDTC khi xác định điều kiện tại khoản 1 Điều 30 BLTTDS năm 2015 đòi hỏi tất cả các bên tranh chấp phải có đăng ký kinh doanh. Cách hiểu này dựa vào việc khoản 1 Điều 30 BLTTDS năm 2015 sử dụng thuật ngữ “phát sinh giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau”. Căn cứ phải hiểu đây là tranh chấp phát sinh giữa “cá nhân có đăng ký kinh doanh” và “tổ chức có đăng ký kinh doanh” với nhau.

Quan điểm thứ hai:không nhất thiết phải bắt buộc tất cả các bên có đăng ký kinh doanh với nhau mà chỉ cần dựa vào bản chất kinh doanh, thương mại trong tranh chấp phát sinhTheo đó, chỉ cần tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh doanh, thương mại của các bên và đều có mục đích lợi nhuận là đủ để trở thành tranh chấp về kinh doanh, thương mại.

Cơ sở của quan điểm này dựa vào hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP, theo đó “Tòa kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận. Mặc dù hướng dẫn này được áp dụng cho BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), tuy nhiên như đã phân tích ở trên, nội dung quy định tại khoản 1 Điều 30 BLTTDS năm 2015 về cơ bản là kế thừa từ khoản 1 Điều 29 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Do đó tinh thần hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP vẫn có thể được các Tòa án cân nhắc áp dụng dù không trích dẫn.

Vì vậy, có thể thấy nếu áp dụng quan điểm thứ nhất thì cả 03 vụ án trên đều không thỏa mãn điều kiện về các bên có đăng ký kinh doanh nên chắc chắn không thể được xác định là tranh chấp kinh doanh, thương mại. Ngược lại, nếu áp dụng quan điểm thứ hai thì cả 03 vụ án hoàn toàn có thể xác định là tranh chấp kinh doanh, thương mại vì lúc này chỉ cần xác định có mục đích lợi nhuận còn việc có đăng ký kinh doanh không còn là yếu tố bắt buộc để xác định có phải là tranh chấp kinh doanh, thương mại được không.

Trên đây là các thông tin vềKhoản 1 Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 mà LVN Group gửi tới tới quý bạn đọc Nếu còn bất kỳ câu hỏi nào cần hỗ trợ về vấn đề trên vui lòng liên hệ với Công ty Luật LVN Group của chúng tôi. Công ty Luật LVN Group luôn cam kết sẽ đưa ra nhưng hỗ trợ tư vấn về pháp lý nhanh chóng và có hiệu quả nhất. Xin chân thành cảm ơn quý bạn đọc.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com