Pháp luật lao động của nhiều quốc gia quy định cụ thể các nội dung thương lượng tập thể.

Ở phạm vi cấp doanh nghiệp, nội dung thương lượng tập thể chủ yếu là những vấn đề mang tính phân phối và xung đột lợi ích giữa các bên quan hệ lao động, như: các vấn đề về tiền lương, tiền thưởng, trợ cấp, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, làm thêm giờ… Tuy các vấn đề này đều đã được pháp luật quy định, nhưng do pháp luật chỉ quy định khung, giới hạn mức tối thiểu (tiền lương tôi thiểu) hoặc mức tối đa (thời giờ làm việc), nên các bên cần thoả thuận cụ thể cho phù hợp với điều kiện thực tế của bên mình. Chẳng hạn, vấn đề về thời giờ làm việc, các bên cần thương lượng cụ thể về độ dài thời thời giờ làm việc trong ngày, trong tuần, thời gian nghỉ giải lao giữa ca làm việc, nghỉ hàng tuần, chế độ nghỉ hằng năm đối với người lao động phù hợp với từng loại công việc, ngành nghề,… trên cơ sở bảo đảm quyền và nghĩa vụ của N người lao động và có lợi hơn so với quy định của pháp luật. Tại nhiều quốc gia, ngoài các vấn đề về điều kiện lao động, nội dung thương lượng tập thể còn bao gồm các vấn đề khác như: kỉ luật lao động, đào tạo nghề, chấm dứt sử dụng lao động, việc khiếu nại của người lao động , về lĩnh vực kỉ luật sa thải/cho thôi việc, bảo hiểm bổ sung và phúc lợi hoặc bất kì nội dung nào khác mà hai bên quan tâm.

Ở phạm vi cấp ngoài doanh nghiệp, nội dung thương lượng tập thể được quy định rộng hơn, mang tính khái quát hơn so với nội dung thương lượng ở cấp doanh nghiệp. Chẳng hạn, ở Liên bang Nga, nội dung thương lượng tập thể cấp ngành bao gồm các điều kiện chung của việc trả công lao động, điều kiện lao động và bảo hộ lao động, chế độ làm việc và chế độ nghỉ ngơi, phát triển các đối tác xã hội và những vấn đề khác (Điều 46 Bộ luật lao động Liên bang Nga năm 2001).

Pháp luật Việt Nam hiện hành không quy định riêng nội dung thương lượng tập thể ở các cấp. Theo đó, các bên thương lượng ở phạm vi một doanh nghiệp hay có nhiều doanh nghiệp tham gia hoặc thương lượng tập thể ngành có quyền lựa chọn một hoặc một số nội dung quy định tại Điều 67 Bộ luật lao động năm 2019 để tiến hành thương lượng tập thể. Đó là nội dung về: tiền lương, trợ cấp, nâng lương, thưởng, bữa ăn và các chế độ khác; mức lao động và thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, làm thêm giờ, nghỉ giữa ca; bảo đảm việc làm đối với người lao động ; bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động, thực hiện nội quy lao động; điều kiện, phương tiện hoạt động của tổ chức đại diện người lao động , mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và tổ chức đại diện người lao động ; cơ chế, phương thức phòng ngừa, giải quyết tranh chấp lao động; bảo đảm bình đẳng giới, bảo vệ thai sản, nghỉ hằng năm, phòng, chống bạo lực và quấy rối tình dục tại nơi làm việc; nội dung khác mà một hoặc các bên quan tâm.

Như vậy, pháp luật chỉ đề cập các nội dung cơ bản mang tính chất gợi ý để các bên lựa chọn tiến hành thương lượng tập thể cho phù họp với nhu cầu của một hoặc nhiều doanh nghiệp hoặc của ngành. Còn nội dung cụ thể của thương lượng tập thể hoàn toàn do các bên tự quyết định. Quy định như vậy vừa tránh sự can thiệp của nhà nước vào quyền tự chủ của các bên quan hệ lao động, đồng thời vừa tăng cường trách nhiệm của đại diện các bên, nhất là bên đại diện người lao động trong việc thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động . Mặt khác, với việc tăng quyền chủ động cho các bên, pháp luật cũng đòi hỏi các bên phải chủ động nâng cao nhận thức, trau dồi kĩ năng, kinh nghiệm nhằm giúp quá trình thương lượng tập thể đạt hiệu quả.

Luật LVN Group (sưu tầm & biên tập)