Quy định chung về nghị án theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Nghị án là việc hội đồng xét xử xem xét, quyết định giải quyết vụ án. Trên cơ sở kết quả của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa, hội đồng xét xử vào phòng nghị án để thảo luận quyết định giải quyết các vấn đề của vụ án.Việc tiến hành nghị án phải đúng thủ tục và quy định do pháp luật đề ra, cụ thể tại bộ luật tố tụng dân sự 2015 có quy định về điều này. Chính vì vậy, nội dung trình bày hôm nay của chúng tôi sẽ viết về chủ đề Quy định chung về nghị án theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Mời các bạn đọc nội dung trình bày sau đây của chúng tôi để biết thêm thông tin !. 

Quy định chung về nghị án theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015

1.Quy định pháp luật  về nghị án theo Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Tại Điều 264. Nghị án Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:

1. Sau khi kết thúc phần tranh luận, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án để nghị án.

2. Chỉ có các thành viên Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Khi nghị án, các thành viên Hội đồng xét xử phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, nếu vụ án thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật này thì còn phải căn cứ vào tập cửa hàng, tương tự pháp luật, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng, để giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án.

3. Khi nghị án phải có biên bản ghi lại các ý kiến đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được các thành viên Hội đồng xét xử ký tên tại phòng nghị án trước khi tuyên án.

4. Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, việc nghị án đòi hỏi phải có thời gian dài thì Hội đồng xét xử có thể quyết định thời gian nghị án nhưng không quá 05 ngày công tác, kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa.

Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa về giờ, ngày và địa điểm tuyên án. Trường hợp Hội đồng xét xử đã thực hiện việc thông báo mà có người tham gia tố tụng vắng mặt vào ngày, giờ và địa điểm tuyên án thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc tuyên án theo hướng dẫn tại Điều 267 của Bộ luật này.

Để đảm bảo nguyên tắc xét xử liên tục, phát huy trách nhiệm của các thành viên hội đồng xét xử trong việc giải quyết vụ án, tránh việc tạm ngừng tuyên án kéo dài, khoản 4 Điều 264 Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định về thời gian nghị án tối đa không quá năm ngày công tác, kể từ khi kết thúc tranh luận tại phiên tòa. Nếu xét thấy có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, việc hỏi chưa được đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì hội đồng xét xử quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận. Có thể thấy, lần đầu tiên pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam quy định việc trở lại hỏi và tranh luận trong quá trình nghị án. Đây là quy định mới của Bộ luật tố tụng dân sự, xuất phát từ thực tiễn xét xử, trong trường hợp việc hỏi, tranh luận tại phiên tòa chưa xem xét trọn vẹn, toàn diện chứng cứ nhưng đến khi nghị án mới phát hiện ra. Nếu không được trở lại việc hỏi và tranh luận thì hội đồng xét xử buộc phải ra bản án và bản án đó sẽ có nhiều khả năng bị kháng cáo, kháng nghị vì xem xét, đánh giá chứng cứ không trọn vẹn, toàn diện.

Hội đồng xét xử phải thông báo cho những người có mặt tại phiên tòa và người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa về giờ, ngày và địa điểm tuyên án. Trường hợp Hội đồng xét xử đã thực hiện việc thông báo mà có người tham gia tố tụng vắng mặt vào ngày, giờ và địa điểm tuyên án thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc tuyên án theo hướng dẫn tại Điều 267 của Bộ luật này.

Việc ưu tiên cho hội thẩm nhân dân biểu quyết trước là nhằm tạo điều kiện cho hội thẩm nhân dân có được tiếng nói khách quan, vô tư về vụ án, tránh tình trạng ý kiến của hội thẩm nhân dân bị phụ thuộc vào ý kiến của thẩm phán hoặc thẩm phán áp đặt ý kiến của mình cho các hội thẩm nhân dân. Hơn nữa, quy định này còn có ý nghĩa phát huy vai trò và trách nhiệm của hội thẩm nhân dân trong hoạt động tố tụng, buộc hội thẩm nhân dân phải đầu tư thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa. Điều đó sẽ giúp cho Hội thẩm nhân dân nắm vững nội dung vụ án, tham gia một cách nghiêm túc và có hiệu quả vào việc xét xử.

2.Quy định về tuyên án trong vụ án dân sự

Sau khi bản án đã được thông qua, hội đồng xét xử trở lại phòng xét xử để tuyên án. Theo Điều 267 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì thủ tục tuyên án được thực hiện như sau:

+ Khi tuyên án, mọi người trong phòng xử án phải đứng dậy, trừ trường hợp đặc biệt được phép của chủ tọa phiên tòa;

+ Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của hội đồng xét xử đứng đọc nguyên văn bản án và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc thi hành bản án và quyền kháng cáo. Đối với những vụ xử kín, tòa án vẫn phải tuyên công khai phần mở đầu và phần quyết định của bản án;

+ Trong trường hợp có đương sự không biết tiếng Việt thà sau khi tuyên án, người phiên dịch phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ biết.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com