1. Giới thiệu tác giả

Sách chuyên khảo “Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con người”  PGS.TS. Trịnh Quốc Toản biên soạn.

2. Giới thiệu hình ảnh sách

Sách Nghiên cứu hình phạt trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con ngườ

Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con người

Tác giả:  PGS.TS. Trịnh Quốc Toản biên soạn

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia

3. Tổng quan nội dung sách

Tội phạm và hình phạt là hai chế định quan trọng của luật hình sự, có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Khi nói đến luật hình sự, dù đề cập nội dung cụ thể nào thì tập trung lại cũng nhằm đi đến vấn đề tội phạm và hình phạt.

Hình phạt cũng như các biện pháp miễn, giảm hình phạt trong luật hình sự Việt Nam vừa là nội dung, vừa là phương tiện của chính sách hình sự Việt Nam, đã phát huy vai trò, tác dụng tích cực, trở thành công cụ pháp lý rất quan trọng trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp phần bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; đáp ứng yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm; thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam từ năm 1945 đến nay cho thấy hệ thống hình phạt cũng như các biện pháp miễn, giảm hình phạt được quy định phong phú và đa dạng, có sự kế thừa và bổ sung hoàn thiện qua từng thời kỳ. Hệ thống hình phạt cũng như các biện pháp miễn, giảm hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Bộ luật hình sự hiện hành) là kết quả của nhiều lần sửa đổi và bổ sung trên cơ sở tổng kết thực tiễn áp dụng và thi hành các chế định này của các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Trong công tác xét xử các vụ án hình sự, hình phạt và các biện pháp miễn, giảm hình phạt được các Tòa án áp dụng đối với người phạm tội đã thể hiện được chính sách hình sự của Nhà nước ta là trừng trị kết hợp với khoan hồng, nghiêm trị kết hợp với giáo dục, cải tạo, thuyết phục, thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng về phòng, chống tội phạm theo phương châm lấy phòng ngừa là chính, kết hợp răn đe, giáo dục chung, góp phần bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đáp ứng được yêu cầu của dư luận xã hội và yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị ở địa phương cũng như trong toàn quốc. Mặc dù vậy, tổng kết thực tiễn xét xử cho thấy việc áp dụng hình phạt và các biện pháp miễn, giảm hình phạt của Tòa án các cấp cũng còn bộc lộ những bất cập, tồn tại nhận định làm giảm hiệu quả của hình phạt trong áp dụng và thi hành. Bên cạnh đó, việc áp dụng những quy định về các biện pháp miễn, giảm hình phạt trong thực tiễn cũng gặp những hạn chế, khó khăn, vướng mắc nhất định.

Nguyên nhân của thực trạng trên không chỉ xuất phát từ quy định về hệ thống hình phạt cũng như về các biện pháp miễn, giảm hình phạt trong Phần chung cũng như trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự hiện hành chưa thể hiện được đầy đủ chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước ta, chưa thể hiện được quan điểm giảm hình phạt tù, tăng cường các hình phạt không phải tù, quan điểm tăng cường tính hướng thiện của hình phạt; đáp ứng đòi hỏi của các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự, như nguyên tắc pháp chế, nhân đạo, công bằng, phân hóa trách nhiệm hình sự,… mà còn từ các nguyên nhân khác, trong đó có nguyên nhân từ việc giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật chưa thật sự đồng bộ và đầy đủ; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức pháp luật và trách nhiệm nghề nghiệp của một bộ phận những người làm công tác xét xử còn hạn chế…

Đây là cuốn sách đầu tiên nghiên cứu toàn diện về hình phạt và các biện pháp miễn, giảm hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới về mặt khoa học của cuốn sách là: 1) Hệ thống, phân tích và bổ sung những vấn đề có tính lý luận về hình phạt và các biện pháp miễn, giảm hình phạt; đưa ra các quan điểm mới về khái niệm hình phạt, khái niệm, đặc điểm và vai trò của hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các biện pháp miễn, giảm hình phạt; 2) Khái quát, làm sáng tỏ quá trình hình thành, phát triển và đặc điểm của các quy định về hình phạt và các biện pháp miễn, giảm hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay; 3) Đánh giá toàn diện các quy định về hình phạt và các biện pháp miễn, giảm hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, từ đó rút ra được những bất cập, hạn chế của nó; 4) Đưa ra những căn cứ khoa học, xác định những nhu cầu, quan điểm, đề xuất những kiến nghị khoa học cho việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành liên quan đến hình phạt, các biện pháp miễn, giảm hình phạt.

Cuốn sách được biên soạn với cấu trúc gồm 05 chương như sau:

Chương I: Những vấn đề chung về hình phạt

Chương II: Các hình phạt chính trong Bộ luật hình sự hiện hành

Chương III: Các hình phạt bổ sung trong Bộ luật hình sự hiện hành

Chương IV: Các biện pháp miễn, giảm hình phạt trong Bộ luật hình sự hiện hành

Chương V: Nhu cầu, quan điểm và những kiến nghị hoàn thiện các quy định về hình phạt và miễn, giảm hình phạt trong Bộ luật hình sự hiện hành

4. Đánh giá bạn đọc

Cuốn sách trình bày tương đối toàn diện, có hệ thống về hình phạt và các biện pháp miễn giảm hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, qua đó, đưa ra những đóng góp theo quan điểm của cá nhân tác giả cho việc sửa đổi chế định này theo hướng “tôn trọng và bảo vệ quyền con người” như Nghị quyết số 49-NQ/TVV ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ.

Cuốn sách không chỉ có giá trị về mặt khóa học pháp lý mà còn có giá trị thực tiễn sâu sắc. “Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con người” là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho bạn đọc là người quan tâm và có nhu cầu nghiên cứu về quyền con người nói chung và bảo vệ quyền con người trong pháp luật hình sự Việt Nam.

5. Kết luận

Hy vọng những chia sẻ trên đây của chúng tôi sẽ là một nguồn tư liệu đánh giá chất lượng sách hiệu quả tin cậy của bạn đọc. Nếu thấy chia sẻ của chúng tôi hữu ích, bạn hãy lan tỏa nó đến với nhiều người hơn nhé! Chúc các bạn đọc sách hiệu quả và thu được nhiều thông tin hữu ích từ cuốn sách “Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con người”.

Luật LVN Group chia sẻ dưới đây quy định về các hình phạt chính trong Bộ luật hình sự Việt Nam 2015 (sửa đổi 2017) để bạn đọc tham khảo:

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật hình sự hiện hành, hình phạt chính bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền; c) Cải tạo không giam giữ; d) Trục xuất; đ) Tù có thời hạn;me) Tù chung thân; g) Tử hình.

Điều 34. Cảnh cáo

Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.

Điều 35. Phạt tiền

1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp sau đây:

a) Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định;

b) Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.

2. Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội về tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật này quy định.

3. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả, nhưng không được thấp hơn 1.000.000 đồng.

4. Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định tại Điều 77 của Bộ luật này.

Điều 36. Cải tạo không giam giữ

1. Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ 06 tháng đến 03 năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi cư trú rõ ràng nếu xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội.

Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.

2. Tòa án giao người bị phạt cải tạo không giam giữ cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc giám sát, giáo dục người đó.

3. Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Việc khấu trừ thu nhập được thực hiện hàng tháng. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa án có thể cho miễn việc khấu trừ thu nhập, nhưng phải ghi rõ lý do trong bản án.

Không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự.

4. Trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong 01 tuần.

Không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.

Người bị kết án cải tạo không giam giữ phải thực hiện những nghĩa vụ quy định tại Luật thi hành án hình sự.

Điều 37. Trục xuất

Trục xuất là buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trục xuất được Tòa án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể.

Điều 38. Tù có thời hạn

1. Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định.

Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm.

Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù.

2. Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.

Điều 39. Tù chung thân

Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình.

Không áp dụng hình phạt tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Điều 40. Tử hình

1. Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.

2. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử.

3. Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi;

b) Người đủ 75 tuổi trở lên;

c) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn.

4. Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.