Thẩm quyền xét xử trong trường hợp người trong Quân đội phạm tội

Vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân.

1. Toà án quân sự là gì?

Tòa án quân sự là những tòa án thuộc hệ thống Tòa án nhân dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được tổ chức và đảm nhiệm công tác xét xử hình sự trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Hệ thống các tòa án quân sự có 3 cấp: Tòa án quân sự trung ương; các Tòa án quân sự quân khu và tương đương; Tòa án quân sự khu vực.

Hoạt động xét xử của các Tòa án quân sự chịu sự giám đốc xét xử của Tòa án nhân dân tối cao của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Thẩm quyền xét xử vụ án hình sự của Tòa án quân sự được quy định thế nào?

Thẩm quyền xét xử vụ án hình sự của Tòa án quân sự được quy định tại Điều 272 Bộ luật tố ụng hình sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018). Căn cứ như sau:

Một là, Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử các Vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân;

Vụ án hình sự mà bị cáo không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây tổn hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ.

Hai là, Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả tội phạm xảy ra trong địa bàn thiết quân luật.

Vì vậy, có thể thấy, Tòa án nhân dân có thẩm quyền rộng hơn, xét xử hầu hết các đối tượng phạm tội, trừ những đối tượng thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự đã được quy định trong Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự 2002 cũng như quy định nêu trên. Đồng thời, ngay trong thẩm quyền xét xử của các Tòa án quân sự cũng có sự phân biệt thẩm quyền theo đối tượng. Cấp bậc, chức vụ của quân nhân chính là căn cứ để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự các cấp.

3.Phân định thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự và Tòa án nhân dân

Theo quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ ràng về việc phân định thẩm quyền xét xử của Tòa án trong trường hợp bị cáo vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Theo đó, trường hợp có thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự; Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân; trường hợp không thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án.

4. Vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự

Trước tiên chúng ta cần thấy rằng hậu quả của vụ án là anh M (dân) tử vong và anh Q (quân nhân) bị thương tích 31%; phải xem đây là hậu quả chung của vụ án; căn cứ để truy tố bị can phải dựa vào hậu quả chung đó và việc xác định tư cách tố tụng trong vụ án phải xác định cả anh Q với tư cách là bị hại (bên cạnh Đại diện hợp pháp của bị hại M).

Tuy nhiên trong vụ án này, hậu quả chung có anh M bị tổn hại tính mạng, do đó đã đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị can đã vi phạm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 BLHS năm 2015. Đặt trường hợp anh M không bị chết mà chỉ bị thương tích 30% thì rõ ràng hậu quả chung của vụ án là làm bị thương 02 người với tổng thương tích là 61%, sẽ vi phạm quy định tại điểm c khoản 1 Điều 260 BLHS 2015. Trong trường hợp này, sự tổn hại tính mạng của anh M là hậu quả cao nhất làm hậu quả chung thì vẫn phải tính anh Q là bị hại. Bởi thực tiễn anh Q vẫn bị thương tích do hành vi trái pháp luật của bị can gây ra, hậu quả thương tích của anh Q có mối quan hệ nhân quả với hành vi của bị can.

Vì vậy xét về mặt lý và tình, anh Q phải được bị can bồi thường tổn hại. Việc xác định anh Q là bị hại trong vụ án sẽ giải quyết được vấn đề bồi thường tổn hại này. Hành vi của bị can gây ra hậu quả một người thương tích, một người chết nhưng hai người này là một chủ thể, hai người đi trên cùng một chiếc xe mô tô, đều bị hành vi trái pháp luật của bị can xâm phạm, do đó hậu quả là hậu quả chung, không thể tách rời, càng không thể tách vụ án ra được.

Thẩm quyền của Tòa án quân sự quy định rõ tại Điều 272 BLTTHS 2015, cụ thể như sau:

Điều 272. Thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự

Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử:

a) Vụ án hình sự mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội nhân dân trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội nhân dân;

b) Vụ án hình sự mà bị cáo không thuộc đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều này liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu hoặc gây tổn hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội nhân dân hoặc phạm tội trong doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội nhân dân quản lý, bảo vệ.

Tòa án quân sự có thẩm quyền xét xử tất cả tội phạm xảy ra trong địa bàn thiết quân luật.

Vì bị hại Q là Quân nhân tại ngũ nên theo hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 272 nêu trên thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự.

Điều 273 BLTTHS 2015 quy định việc tách vụ án nhưng chỉ là trong trường hợp “Bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự”. Trường hợp vụ án này không thể xem là “Bị cáo phạm nhiều tội” được bởi như đã phân tích trên, hậu quả xảy ra là hậu quả chung của một vụ án với một bị can và một tội danh là “Vi phạm quy dịnh về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 BLHS 2015. Hậu quả chết người là hậu quả cao nhất lấy làm cơ sở để truy tố bị can nhưng anh Q vẫn là bị hại, và điều này sẽ có ý nghĩa khi lượng hình và tuyên phần dân sự khi giải quyết vụ án.

5. Bình luận thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự

Những vụ án hình sự mà người phạm tội là các đối tượng sau đây thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự không phụ thuộc vào việc họ phạm tội gì và phạm tội ở đâu:

– Quân nhân tại ngũ bao gồm: Sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ và quân nhân chuyên nghiệp được quy định trong Luật nghĩa vụ quân sự, Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam;

– Công chức quốc phòng bao gồm: Những công dân được tuyển dụng vào phục vụ trong Quân đội hoặc từ sĩ quan chuyển sang và do các đơn vị, doanh nghiệp quân đội trực tiếp quản lý theo quy đinh cua pháp luật về cán bộ, công chức và Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam;

– Công nhân quốc phòng bao gồm: Những công dân được tuyển dụng thuộc biên chế của các đơn vị, doanh nghiệp quân đội; Những công dân có hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các đơn vị, doanh nghiệp quân đội, nếu họ phạm tội khi đang thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo hợp đồng;

– Quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng động viên, tình trạng sẵn sàng chiến đấu theo hướng dẫn của pháp luật về lực lượng dự bị;

– Dân quân, tự vệ trong thời gian phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chỉ huy theo hướng dẫn của pháp luật về dân quân, tự vệ;

– Những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý bao gồm những công dân do nhu cầu chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc do nhiệm vụ quân sự khác được các đơn vị quân đội trưng tập và trực tiếp quản lý họ để đáp ứng các nhu cầu đó.

Những vụ án hình sự mà người phạm tội không thuộc các đối tượng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 272 của Bộ luật Tố tụng hình sự, chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự, nếu họ phạm tội có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây tổn hại cho Quân đội, cụ thể là:

– Bí mật quân sự là bí mật của Quân đội, bí mật về an ninh quốc phòng được xác định là bí mật quân sự và được quy định trong các văn bản do các đơn vị nhà nước có thẩm quyền ban hành.

– Gây tổn hại cho Quân đội là gây tổn hại đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 272 của Bộ luật Tố tụng hình sự hoặc tài sản của những người này được Quân đội cấp phát để thực hiện nhiệm vụ quân sự; gây tổn hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội. Tài sản của Quân đội là tài sản do Quân đội quản lý, sử dụng, kể cả trường hợp Quân đội giao tài sản đó cho dân quân, tự vệ hoặc bất kỳ người nào khác quản lý, sử dụng để chiến đấu, phục vụ chiến đấu hoặc thực hiện nhiệm vụ quân sự. Cũng được coi là gây tổn hại cho Quân đội trong trường hợp người đang bị tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù trong nhà tạm giữ, trại tạm giam, trại giam do Quân đội quản lý mà lại tiếp tục phạm tội.

Vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự cấp nào xảy ra trên địa bàn có Tòa án quân sự cấp đó thì do Tòa án quân sự cấp đó xét xử. Việc phân định địa bàn trong Quân đội để xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự do Bộ Quốc phòng quy định cụ thể.

Trên đây là toàn bộ nội dung về Thẩm quyền xét xử trong trường hợp người trong Quân đội phạm tội do Luật LVN Group gửi tới. Hy vọng những thông tin trên sẽ giúp ích cho quý bạn đọc. Trong quá trình nghiên cứu, nếu quý bạn đọc còn có câu hỏi, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua website hoặc Hotline để được hỗ trợ trả lời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com